bàn trước mặt ông ta. Bà rùng mình khép cửa phòng lại nét mặt còn lộ vẻ sợ
hãi.
- Chúa ơi! - Bà thì thầm.
Người khách ngồi lắng nghe tiếng bước chân của bà xa dần. Ông ta cẩn
thận liếc nhìn về phía cửa sổ với vẻ nghi ngờ trước khi để chiếc khăn
xuống, và tiếp tục bữa ăn. Ông ta ngốn đầy thức ăn vào miệng, lại nhìn ra
cửa sổ, rồi ăn thêm một miếng nữa; rồi nhỏm dậy, cầm cái khăn bàn che
miệng, bước lại cửa sổ kéo màn che cửa xuống, làm căn phòng tối sầm lại.
Lúc đó, ông ta mới yên tâm trở lại bàn và dùng tiếp bữa ăn một cách thoải
mái.
- Ông khách tội nghiệp này chắc bị một tai nạn hay một cuộc phẫu thuật
hoặc một cái gì đại loại như thế. - Bà Hall thầm nhủ.
- Sao lại có những con người kỳ dị đến như vậy, thật giống một xác ướp
chứ không phải một người sống. Mấy cái băng làm mình chết khiếp đi mất!
Bà Hall đặt thêm mấy cục than vào lò và hong khô áo khoác của khách.
“Lại còn cặp kính đen nữa chứ! Ông ta thật chẳng giống con người chút
nào. Lúc nào cũng che chiếc khăn ngang miệng, còn nói chuyện qua đấy
nữa!... Chắc miệng của ông ta cũng bị thương luôn!”.
Bà quay lại như vừa nhớ ra chuyện gì:
- Chúa ơi! Mày chưa làm xong món khoai tây hả, Millie?
Khi trở lại dọn dẹp bàn ăn cho khách lạ, bà Hall càng tin chắc rằng
miệng ông ta bị thương vì tai nạn hay bị giải phẫu như bà tưởng tượng.
Trong suốt thời gian bà ở lại trong phòng để dọn dẹp. Tuy đang cầm một
tẩu thuốc cháy dở, ông ta vẫn không dám bỏ cái khăn che kín phần mặt
dưới ra để hút thuốc. Điều này không phải do đãng trí, vì thỉnh thoảng ông
ta vẫn liếc nhìn nhúm thuốc đang tàn dần trong miệng tẩu.
Ông khách ngồi trong góc phòng, lưng quay về cửa sổ được buông màn
kín mít. Sau khi ăn uống xong và thấy ấm áp dễ chịu, ông ta bớt cáu gắt hơn