“E-Wave,” Winston tuyên bố. “Một đột phá - nếu quý vị bỏ qua cho cách
chơi chữ ấy - vượt xa D-Wave của NASA/Google.”
Winston nhanh nhẹn giải thích rằng D-Wave - “chiếc máy tính lượng tử”
phôi thai đầu tiên của thế giới - đã mở ra một thế giới mới mẻ về sức mạnh
của máy tính mà các nhà khoa học vẫn đang phải vật vã tìm cách nắm bắt.
Điện toán lượng tử, chứ không phải sử dụng một phương pháp lưu trữ thông
tin nhị phân, tạo ra việc sử dụng các trạng thái lượng tử của các hạt ở cấp độ
hạ nguyên tử, dẫn đến đột phá phi thường về tốc độ, sức mạnh và độ linh
hoạt.
“Chiếc máy tính lượng tử của Edmond,” Winston nói, “về mặt cấu trúc
không hề khác với D-Wave. Điểm khác biệt là khối vuông kim loại bao bọc
máy tính. Khối vuông được bọc lớp osmium - một nguyên tố hóa học hiếm
siêu nặng giúp cải thiện hẳn khả năng che chắn từ, nhiệt và lượng tử và tôi
ngờ rằng còn góp phần vào khiếu thích kịch tính của Edmond nữa.”
Langdon mỉm cười, vì chính ông cũng có suy nghĩ tương tự.
“Trong mấy năm qua, trong khi Phòng nghiệm Trí tuệ Lượng tử của
Google sử dụng các loại máy như D-Wave để tăng cường kiến thức của máy
thì Edmond lại bí mật vượt qua tất cả mọi người bằng chính cỗ máy này. Và
ông ấy làm việc đó nhờ sử dụng một ý tưởng táo bạo duy nhất…” Winston
ngừng lại. “Cơ chế lưỡng viện.”
Langdon cau mày. Hai viện của Quốc hội ư?
“Là bộ não hai thùy,” Winston tiếp tục. “Bán cầu trái và phải.”
Là trí não hai ngăn, giờ thì Langdon nhận ra. Một trong những điều khiến
con người có sức sáng tạo là hai nửa của não bộ có chức năng hoàn toàn
khác nhau. Não trái thiên về phân tích và ngôn ngữ, trong khi não phải thiên
về trực giác và “thích” hình ảnh hơn ngôn từ.
“Bí quyết,” Winston nói, “là Edmond quyết định tạo ra một bộ não nhân
tạo mô phỏng não bộ con người - tức là, được chia thành bán cầu trái và
phải. Thế nhưng, trong trường hợp này, nó là cách bố trí tầng trên - tầng
dưới thì đúng hơn.”