Ông cảnh cáo một cách trực tiếp trước cách nhìn trái ngược như là
một nguyên do của những trở ngại và những hiểu lầm bất tận. Hoàn toàn
tương phản ở đây, là các tác giả khác đã tìm thấy một con đường khác, xem
kết hôn ngoại tộc như là một hậu quả tất yếu của những quan sát cơ bản
Totem luận. Durkheim đã chỉ ra trong các công trình của mình rằng, cấm kị
gắn liền với vật tổ đã buộc phải đưa đến sự cấm đoán như thế nào khi muốn
có một người nữ cùng nhóm vật tổ để thực hiện tính giao. Vật tổ cũng
mang dòng máu như con người, và do đó quyền xử tử (Blutbann, với sự đề
cao sự phá trinh và kinh nguyệt) đã cấm đoán tính giao với người nữ cùng
vật tổ. A. Lang, người ở đây đồng quan điểm với Durkheim thậm chí cho
rằng, không cần thiết phải viện đến cấm kị theo huyết thống để tác động
đến cấm đoán với phụ nữ cùng một họ. Kiêng kị phổ quát theo vật tổ kiểu
như cấm ngồi dưới bóng râm của cây vật tổ chắc cũng đã đủ nói rõ điều đó.
Sau đó A. Lang còn đả kích một kiểu suy diễn khác và tỏ ra nghi ngờ
không rõ hai lối giải thích đó thích ứng với nhau như thế nào (xin xem dưới
đây).
Ở mối tương quan về thời gian thì phần lớn các tác giả nhìn nhận
rằng Totem giáo chắc là một thiết chế cổ xưa hơn, và kết hôn ngoại tộc là
cái xuất hiện muộn hơn.
Trong số các lí thuyết muốn giải thích kết hôn ngoại tộc độc lập đối
với Totem giáo, chỉ có một vài lí thuyết nổi bật lên bởi chúng diễn giải
những quan điểm khác nhau của các tác giả về vấn đề loạn luân.
McLennan đoán định đúng kết hôn ngoại tộc trong một cung cách
đầy thần bí từ những tàn tích của các phong tục khiến liên tưởng đến tục
cướp cô dâu thuở trước, ông giờ đây cho rằng, chắc trong những thời đại
thái cổ có tập tục lấy một người nữ của một thị tộc khác, và việc kết hôn
với một người nữ cùng thị tộc là không được phép, vì nó rất xa lạ. Ông đã
tìm tòi nguyên do của tập quán kết hôn ngoại tộc ở sự khan hiếm phụ nữ
trong những thị tộc đó do tục giết trẻ sơ sinh gái trong sinh nở.