Không phải do chỗ con người cùng hào hứng vui thích theo một chương
trình định sẵn nào đó mà đi đến thác lọan, mà là ở chỗ sự thái quá đã nằm
sẵn trong cơ chế của lễ hội; niềm hào hứng hội hè được sản sinh ra từ sự
giải phóng của điều lẽ ra bị cấm."
Về nguyên nhân tâm lí, chủ nghĩa Mác xem tôn giáo như là liều
thuốc tự an ủi trước những tai hoạ và bất hạnh của số phận do không hiểu
biết qui luật của thế giới tự nhiên và xã hội, như Mác nói "Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân”, thì Freud cũng coi sự sợ hãi và bất lực của con
người cũng như sự chạy trốn tai họa là những căn nguyên tân lí của tôn
giáo, trước hết là bái vật giáo Freud viết: "Der Totem sollte einen sicheren
Zufluchsort fur die Seele darstellen, an dem sie deponier wird, um den
Gefahren, die sie bedrohen, entzogen zubleiben." (Bái vật phải được diễn tả
như một nơi trú ẩn, nơi đó con người được che chở, tránh cho họ khỏi
những tai hoạ đe doạ họ).
Học thuyết Freud về tôn giáo luôn luôn bắt nguồn từ tâm thần học.
Ngay từ năm 1907 trong chuyên luận "Hành vi cưỡng bức và trau dồi tôn
giáo" Freud đã sử dụng mối tương liên giữa bệnh tâm thần và nghi lễ nhằm
dọi một tia sáng vào lĩnh vực thâm u là tôn giáo: "Bằng những nét tương
đồng đó và sự phân tích người ta có thể tự tin mà nhận định bệnh tâm thần
cưỡng bức là đối thể đồng dạng để hình thành tôn giáo, xem bệnh tâm thần
là sự cuồng tín cá nhân, và tôn giáo là bệnh tâm thần cưỡng bức toàn cầu.
Nét tương đồng cơ bản nhất nằm ở chôc chúng từ bỏ trên căn bản sự chi
phối của dục tính vốn phát xuất từ bản chất; nét khác biệt có tính quyết
định trong bản chất của dục tính là ở chỗ: ở bệnh tâm thần nó bắt nguồn từ
tính dục, còn ở tôn giáo thì từ thói ích kỉ."
Vị trí nêu trên sẽ luôn bị hiểu lầm nếu người ta phân tích nó bằng
các khái niệm "bệnh tật / khoẻ mạnh" truyền thống. Nét đặc trưng trong vận
động tư duy của Freud chính là sự tương liên hoá phù hợp cho cái gọi là
"khoẻ mạnh", "bình thường" và "bệnh tật" (trong hệ thống của ông - ND).
Sự tương liên hoá đó cũng đã từng đóng một vai trò căn bản trong khám
phá cái vô thức của ông. Khi đó ông đã thành công bằng cách tự tuyên bố