vấn đề đó chúng tôi xin lưu ý rằng, ngay cả trong ý thức tội lỗi cũng có
chút gì đó chưa được biết tới và vô thức tuồng như cái động lực của sự tố
cáo. Tương ứng với cái chưa biết đó là đặc tính sợ hãi của ý thức tội lỗi.
Nếu như cấm kị nghiêng về biểu hiện ra trong cấm đoán, thì có thể
nghĩ đến một điều, nó nói cho chúng ta rằng, đó là hiển nhiên và không đòi
hỏi phải chứng minh gì thêm từ trong loại suy sang người bệnh tâm thần,
rằng nó có cơ sở là một dòng thác nhục dục tích cực. Vì rằng cái gì mà
không ai thèm muốn thì người ta không chẳng cần phải cấm đoán làm gì,
và dù thế nào, thì cái bị cấm đoán nghiêm ngặt cũng sẽ là đối tượng của
thèm muốn. Nếu như chúng ta vận dụng câu nói đáng tin cậy này vào người
nguyên thuỷ của chúng ta, thì chúng ta buộc phải kết luận rằng, thuộc về
các ham muốn mạnh nhất của họ là giết chết vua chúa và tăng lữ, là lao vào
loạn luân, là hành hạ người chết và các hành vi tương tự khác. Giờ thì
không thể được nữa; chúng ta đánh thức dậy cái mâu thuẫn quyết định nhất,
một khi chúng ta dùng câu nói đã nêu vào các trường hợp trong đó chúng ta
tin rằng đã nắm bắt được giọng điệu của tri thức một cách rõ ràng nhất.
Chúng ta chắc sẽ nhận định như đinh đóng cột rằng chúng ta không cảm
thấy thèm muốn bước qua một trong những điều qui ước tí nào, chẳng hạn
qui ước: Mày không được ám sát, và rằng chúng ta không cảm thấy gì khác
hơn là nỗi hổ thẹn trước sự vi phạm một điều tương tự.
Nếu như người ta qui ý nghĩa đúng đắn về phát ngôn của tri thức
của chúng ta, thì một mặt, cấm kị sẽ quá rộng - cả cấm kị lẫn những cấm
đoán có tính đạo đức của chúng ta -, mặt khác bản chất của tri thức vẫn
không sáng tỏ và các mối quan hệ giữa tri thức, cấm kị và bệnh tâm thần sẽ
biến mất, vậy là tình trạng đó của sự hiểu biết của chúng ta được tạo ra, cái
hiện tồn tại cho đến chừng nào chúng ta không vận dụng các luận điểm
phân tâm học vào vấn đề này.
Nếu như chúng ta trả giá cho thực chất được tìm ra thông qua phân
tích tâm lí - các giấc mơ của người khoẻ mạnh, rằng ham muốn giết người
ở bản thân chúng ta cũng mạnh hơn và thường xuyên hơn là chúng ta vốn
biết, và rằng nó thể hiện những tác động tâm lí ngay cả ở nơi mà ý thức của