Họ không có thượng cổ sử ở Đông Nam Á, mà cổ sử của họ, được các
ông Tây viết, thì rõ ra, không đúng. Khi những quyển sử Chiêm Thành
được viết thì chưa có ai biết rằng có hai đợt Mã Lai di cư tới Đông Nam Á
cách nhau 2.500 năm hết, mà cũng chưa ai dè rằng có Mã Lai đợt I, ngôn
ngữ hơi khác Mã Lai đợt II, một đàng nói Chơn, một đàng nói Cẳng, một
đàng nói Người, một đàng nói Orang.
Cổ sử Chàm ở giai đoạn nầy không được các sử gia Pháp, Việt diễn dịch
quy nạp các sự kiện để viết cho thật đúng, nên còn mù mờ. Nhưng có thể
viết đúng được nếu sử dụng tài liệu Tàu một cách khoa học, có dựa vào
sách nhà Hán mới không sai lạc, chớ các sách Đường, Tống thì viết loạn
hết, cho bất cứ nước nào.
Ta nên ghi những điều căn bản sau đây rồi không được nghe những sách
viết tầm ruồng họ nói khác đi:
1) Người Chàm dựng lên nước Lâm Ấp ngay trong lòng thuộc địa
Tàu, tại Tượng Lâm là cái huyện cuối cùng của Nhựt Nam thuở đó
không phải là dân ta, như ai cũng tưởng, vì qua lịch sử của nhơn
loại, không thế nào mà dân tộc A, dựng nước được trong đất mà
dân tộc B là công dân. Chi tiết đó rất là quan trọng, nhưng không
thấy cuốn sử nào chú ý đến, trái lại các sử gia cứ cho rằng dân của
quân Nhựt Nam là dân ta. Một dân tộc có thể cướp hết cả nước của
một dân tộc khác, bằng cách xua quân đi xâm lăng, những kẻ dựng
nước Lâm Ấp chỉ dùng lực lượng bổn xứ là dân chúng, mà người
Chàm thì không làm sao mà lãnh đạo người Việt được trong một
cuộc phiêu lưu mạo hiểm như vậy, thế thì cái lực lượng đó phải là
dân chúng người Chàm.
Tới đây thì vấn đề dân cư ở Nhựt Nam đã rõ, nó ngược hẳn với quan
niệm của các sử gia Pháp, Việt từ xưa đến nay.
2) Vấn đề dân cư của Cửu Chân cũng sẽ được biết rõ, khi ta nhìn
vào các sự kiện khác. Thật thế, sử Tàu chép rằng dân Giao Chỉ đã