Những đứa con được thừa nhận là bao nhiêu? Đáng lý là phải ít hơn, vì
kẻ can đảm, dám chịu trách nhiệm, ít hơn. Nhưng ta cứ cho là cũng 5.000.
Vậy tổng số là 10.000. Mà lính Mỹ thì đóng tới nửa triệu.
Như thế thì một triệu lính chỉ sản xuất có 20 ngàn trẻ lai. Ta thử tính xem
bốn ngàn lính thú Trung Hoa cho ra đời bao nhiêu trẻ lai?
Một bài toán nhơn sẽ cho thấy số lính Tàu tỉ suất có thể cho ra đời con
lai:
4.000 x 60 = 240.000
240 ngàn thì ít hơn nửa triệu quá xa, và số trẻ lai Tàu chỉ bằng phân nửa
trẻ lai Mỹ, tức 10 ngàn. Mười ngàn không thể làm nên đa số, bởi Tàu sản
xuất con thì Lạc Việt cũng sản xuất con, và con số non một triệu dân Lạc
Việt buổi đầu cũng tăng và cũng cứ làm đa số tuyệt đối ở xứ ta.
Có một sự kiện nầy mà sử gia Nguyễn Phương không chú ý tới. Đó là
danh xưng mà người Việt Nam xưa ở miền Bắc dùng để gọi người Tàu. Ta
luôn luôn gọi người Tàu là người Ngô, chớ không bao giờ gọi là Hán là Tần
gì hết.
Nếu gọi theo trào đại của Trung Hoa thì hẳn danh xưng đó phải được
thay đổi, có khi gọi là Ngô, có khi gọi là Tống, là Nguyên. Đằng nầy không.
Như vậy chỉ có thể hiểu là ta gọi họ theo thói quen của ban đầu.
Và Ngô nầy chắc chắn là Ngô Tam Quốc chớ không phải Ngô Ngũ Đại vì
dưới thời Ngũ Đại, ta bị kẹt với Nam Hán, còn Ngô thì ở trên xa lắm. Ngô
Tam Quốc kiểm soát cả từ sông Dương Tử cho đến nước ta.
Nội loạn Tam quốc của Trung Hoa xảy ra vào những năm 213, 280 S.K.
Danh xưng mà ta để dành cho họ có thể đánh dấu với thời họ mới di cư
tới, tức là quá xa về sau nầy, quá xa với cái vụ trồng người của Tần Thủy