NGUỒN GỐC MÃ LAI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM - Trang 346

nữa, nhưng Hạ Châu cứ có nghĩa là Chiều ở vùng Lưỡng Quảng và Quý
Châu.

Nội một trăm danh từ địa phương sống sót nầy đủ cho ta biết rằng người

Quảng Đông gốc Thái và nước Tây Âu là một cường quốc Thái dưới đời
Tần, mạnh ngang hàng với nước Sở, vì Tần Thỉ Hoàng đánh Sở, đã dùng
600 ngàn quân, còn đánh Tây Âu cũng phải dùng đến 500 ngàn quân, và
hao quân nhiều hơn lúc đánh Sở.

Dĩ nhiên là trong hai tỉnh rưỡi ấy cũng còn dân thiểu số, nhưng họ là

thiểu số nên không kể đến vì chủ đất phải là dân đa số, dầu cho họ đã biến
thành Tàu hay mới biến nửa chừng như người Nùng, hoặc chưa biến chút
nào hết như người Đồng người Cầu Di, người Lương, người Bạch Di.

Trong các thứ người thiểu số có người Mèo (thuộc chủng Miêu) và người

Choang (thuộc chủng Mã Lai, nhưng chi Lạc, nhưng đó là Lạc bộ Mã chớ
không phải Lạc bộ Trãi, vì họ rất gần với người Phúc Kiến). Lại còn một
nhóm thiểu số nữa bị Hoa hoá đến 90 phần trăm, đó là người Khách Gia mà
Pháp gọi là Hakka và người miền Nam gọi là Hẹ, gốc Ba Thục, tổ tiên của
An Dương Vương.

Thế thì nước Tây Âu là nước của dân tộc nào, nay đã rõ. Đó là nước của

người Thái, thuộc chủng Mã Lai, chi Âu.

Người Quảng Đông đích thị là người Thái bị đồng hoá và lai giống thành

Tàu vì tuy ngày nay họ nói tiếng Tàu, nhưng còn giữ được lối 100 danh từ
Thái. (Ở chương ngôn ngữ, chúng tôi sẽ chứng minh rằng không hề có tiếng
Quảng Đông như người Việt Nam cứ tưởng. Dân Quảng Đông nói tiếng
Tàu sai giọng chút ít, và quan trọng nhứt là họ còn giữ được lối 100 danh từ
Thái, mà danh từ Thái đó đích thị là danh từ Mã Lai).

Điều quan trọng thứ nhì là không có người Quảng Tây, không có người

Quý Châu, tất cả đều là dân cổ Tây Âu ở y nơi đó, bằng vào lối đọc sai

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.