Công việc kiểm soát ấy lại đòi hỏi qua nhiều khoa học chuyên môn, mà
thường thì một cá nhân, nếu không vì một quyết tâm nào, không học làm gì
cho mất công.
Riêng về công việc viết sử cho Việt Nam, ta lại vấp phải danh xưng bí
hiểm của khoa khảo tiền sử là danh xưng Anh-Đô-Nê-Diêng mà ta không
biết là cái gì, hoặc tưởng là “Mọi”.
Ta cũng lại không hiểu tiếp đầu ngữ Austro chỉ có nghĩa là Phương Nam,
và cứ dịch ra là Úc Châu, Úc Đại Lợi mãi.
Kiểm soát đã khó, mà không hiểu danh từ thì lại càng vô phương.
Thế nên, nếu có vài vị hiếm hoi biết được kết quả của công việc khảo tiền
sử đúng, cũng chẳng ai dùng nó được để mà viết thượng cổ sử cho dân tộc
Việt Nam.
Công việc khảo tiền sử đúng, ám chỉ trên kia, đã được giới khoa học thế
giới kiểm soát rồi, nhưng họ chỉ kiểm soát để biết các nhà khảo tiền sử ấy
làm việc có đúng hay không chớ không có kiểm soát về khía cạnh ăn khớp
với thượng cổ sử Việt Nam.
Nói cách khác, nhà viết sử phải kiểm soát lại, nhưng dưới các khía cạnh
khác, chớ không phải kiểm soát về phương diện khảo tiền sử.
Khoa khảo tiền sử nói đến 8, 9 chủng ở Việt Nam, chớ không phải chỉ nói
đến một chủng, và chủng nào trong 8, 9 chủng ấy đúng là chủng của ta, thì
chỉ có nhà viết sử mới biết khi họ đối chiếu những chủng ấy với ta, về đủ cả
mọi mặt: phong tục, cái sọ, ngôn ngữ, kiến trúc v.v.
Thế nên chúng tôi mới nói rằng mặc dầu công trình khảo tiền sử đúng đã
hoàn tất sứ mạng của nó, các sử gia viết về thượng cổ sử Việt Nam vẫn có
còn sa lầy.