cũng đầy dẫy tiếng Á Rập. Thí dụ danh từ Kafir là danh từ Á Rập dùng để
chỉ người không theo đạo Hồi như họ.
Còn Mã Lai hạng ít thuần chủng nhứt là người Phong, thứ người nầy hiện
sống ở các tỉnh Bình Long, Phước Long, Quảng Đức, mượn quá nhiều danh
từ Cao Miên.
Như vậy, khi thiếu một danh từ Mã Lai trong các biểu đối chiếu, chúng
tôi chỉ đưa vào đó một danh từ Gia Rai, Bà Na hay Sơ Đăng là đủ cho biểu
đối chiếu được giá trị rồi, miễn là danh từ Cao Miên phải khác. Có phải
thế không? Nhưng không, vì đã bảo Cao Miên cũng là Mã Lai thì cái danh
từ Thượng ấy có giống với danh từ Cao Miên, cũng cứ được.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng cố tìm những danh từ Bà Na, Sơ Đăng mà Cao
Miên tuyệt đối không có, nhưng Việt, Chàm lại có, để không còn ai nói
được nữa rằng họ là Cao Miên.
Chúng ta nên đặc biệt chú ý đến ngôn ngữ Khả Lá Vàng. Đó là tiếng Việt
Nam tối cổ, cổ hơn tiếng Mường một bực, mà ta sẽ thấy ở chương “Làng
Cườm” rằng họ tự xưng là người Lạc, và giống thứ người mà thi sĩ Tàu
Tống Ngọc đã tả trong bài thơ Chiêu Hồn: người Điêu Đề.
Nhóm Việt độc nhứt trong thư tịch Trung Hoa có biệt sắc Điêu Đề chỉ
được nói đến có một lần trong thư tịch Tàu. Và ta từng gặp lại họ ở Cao
nguyên Ai Lao, gần đèo Mụ Già, mà cuộc tái ngộ nầy cho ta biết rõ hơn
Tống Ngọc nữa. Tống Ngọc chỉ nói đến chuyện Điêu Đề, còn ta thì được
biết thêm rằng họ tự xưng là Lạc, họ nói tiếng Việt tối cổ, họ thuộc chủng
Cổ Mã Lai, họ có màu da đất đỏ (Ocre), ăn khớp với truyền thuyết ta cho
rằng nước ta xưa tên là Xích Quỷ, họ ăn canh cua đồng, y hệt như người
Bắc Việt ngày nay.
Thế nên chúng tôi xem ngôn ngữ Khả Lá Vàng là ngôn ngữ Mã Lai căn
bản nhứt trong các nhóm ngôn ngữ Mã Lai ở “Đông Pháp”!