Ngữ vựng nầy chúng tôi đã làm, không những thế, chúng tôi còn biến nó
thành các biểu đối chiếu với Hoa ngữ và Mã ngữ ở hai loại bản đối chiếu
khác nhau. Hơn thế cột Hoa ngữ của chúng tôi, lại chia thành nhiều cột nhỏ
vì người Tàu, tuy là đều nói tiếng Tàu ở khắp nơi trên lãnh thổ Trung Hoa,
nhưng giọng của mỗi vùng có khác nhau đôi chút. Những cột nhỏ ấy để
dành cho một số giọng địa phương có thể đưa ảnh hưởng tới Việt Nam.
Thí dụ tiếng Nước của ta. Hán Việt là Thủy, tiếng Trung Hoa chính gốc là
Xùi, nhưng biết đâu ta lại không phải là người Trung Hoa chánh gốc mà chỉ
là người Mân Việt biến thành Việt Nam thành thử giọng Mân Việt Chúi
cũng phải được đưa ra để đối chiếu.
Biểu đối chiếu dưới đây trích ở những tập học các giọng Trung Hoa của
chúng tôi, trích theo một kế hoạch, tức không phải biết cái gì chép cái ấy,
mà đã loại bỏ rất nhiều, không phải chỉ bỏ đi những món đồ mà riêng văn
minh Trung Hoa thuở ấy mới chắc có như Lầu, Các, Hài, mà cũng bỏ cả
những danh từ rất là thông thường.
Những thứ coi thì như là rất tầm thường, nhưng thật ra đó là những món
đồ của một xã hội văn minh cao, chẳng hạn như tiếng Canh (canh để ăn
cơm) chúng tôi cũng không ghi vào đây, vì quả thật ta đã vay mượn thức ăn
đó của Tàu và vay mượn luôn cả danh từ nữa. (Nên biết rằng mãi cho đến
ngày nay mà dân tộc Ấn Độ, văn minh cao là thế, lại chưa biết món canh thì
cái thứ ngỡ hèn mọn ấy là dấu hiệu văn minh cao đấy). Trừ nhiều đến thế,
trừ cả những tiếng mà ai cũng ngỡ là tiếng Việt thông thường, vẫn còn hàng
vạn danh từ Việt gốc, không do Trung Hoa mà ra, và hàng vạn tiếng ấy đủ
để làm một ngôn ngữ giúp một dân tộc diễn những ý thường trong một đời
sống không cao, nhưng cũng chẳng dã man.
Biết bao nhiêu chữ Tàu để đọc được thơ Đường mà không cần tự điển?
Hai ngàn chữ là đủ rồi. Mà đó là thơ, tức chuyện khó. Ta còn lối 10 ngàn
danh từ thuần Việt thì hẳn cũng đã khá giàu, không thể nói rằng không có
một dân tộc khi 10 ngàn danh từ của dân tộc ấy có.