Awan là danh từ của Mã Lai đợt II, còn Mây là danh từ của Mã Lai đợt I.
Ta dùng cả hai vì Việt Nam là Mã Lai hỗn hợp, nhưng trong trường hợp
Mây, ta dùng tiếng Mây để làm quốc ngữ và tiếng Awan để đọc cái chữ
Diển của Tàu, khác với các trường hợp khác, thí dụ trường hợp Chơn và
Cẳng. Chơn, danh từ Mã Lai đợt I, Cẳng, danh từ Mã Lai đợt II, đều được
ta dùng làm quốc ngữ, còn Túc thì ta đọc theo Tàu với sự sai giọng chút ít.
Nhưng mà chỉ có Hán Việt thì mới gần giống Tàu Quảng Đông chớ thuần
Việt thì khác Quảng Đông như đen với trắng. Chỉ có những danh từ cổ Tây
Âu mà Quảng Đông còn giữ được, mới giống thuần Việt mà thôi, chớ
Quảng Đông Tàu, tức Quảng Đông ngày nay, thì tuyệt nhiên không giông.
Có thể nói cổ ngữ Tây Âu và Việt Nam kim ngữ giống nhau vài ngàn
tiếng, chỉ có thế thôi, hoặc nói một cách khác, Cổ ngữ Tây Âu và kim ngữ
Việt Nam là một.
Sự sống sót của mấy mươi danh từ Tây Âu cổ đó là sự tiêu cực đề kháng
một cách tuyệt vọng của dòng Mã Lai Bách Việt, họ gồm hai nhánh lớn
nhứt là nhánh Âu tức Thái, như đã chứng minh, và nhánh Lạc.
Thí dụ: Hai, Trung Hoa chánh gốc nói Ơl, đọc như Ơn miền Bắc Việt,
nhưng vì bị đồng hóa, dân Tây Âu đề kháng lại, và tiếp tục nói Dzi. Đó là
tiếng Mã Lai gốc Tây Tạng mà tất cả các nhóm Mã Lai từ xưa đến nay đều
dùng. Riêng Việt Nam thì dùng của hai tiếng Mã Lai là Hai và Nhị. Và Nhị
không bao giờ là tiếng Hán Việt như ai cũng ngỡ. Ta cũng đề kháng tiêu cực
y như Tây Âu khi ta học tiếng Tàu, và cả hai, Giao Chỉ và Tây Âu, đều
không nói Ơn, Tây Âu chỉ dùng có một tiếng Mã Lai là Dzi còn Lạc Việt thì
dùng cả hai là Hai và Nhị.
Việt Nam: Hai, Nhị
Cổ ngữ Tây Âu: Dzi
Cổ ngữ Ba Thục: Nhi
Bà Na: Ngôi Hai