Ta có thể hiểu rằng vào thời đó Bắc Bố Chính và miền Bắc cũng đều nói
Bông, Trái và Ghe, chớ chưa nói Hoa, Quả và Thuyền, bằng chứng là trong
ngôn ngữ miền Nam, lắm danh từ cổ, gốc Bắc rõ rệt, mặc dầu thuở ấy
dân của chúa Trịnh không có di cư vào. Thí dụ: Họ nói Chỉ, nhưng lại nói
ngón tay trỏ, họ nói hàng rào, nhưng cũng nói rào giậu, họ nói con heo,
nhưng họ chế tạo một thứ bánh tên là bánh da lợn, họ nói Cây, nhưng đặt
tên một thị trấn nhỏ kia là Bến Gỗ, họ nói khoai mì, khoai báng, nhưng đặt
tên một làng quan trọng kia là làng Bến Sắn, họ nói làm mướn, nhưng cũng
lại nói làm thuê.
Ta làm sao cắt nghĩa được hiện tượng đó? Chỉ có một lối giải thích là vào
năm 1668, người Bắc Bố Chính ăn nói y hệt như Bắc Việt, còn Nam Kỳ thì
nói hệt theo Bắc Bố Chính.
Nhưng Bắc Việt thay đổi, mà lưu dân miền Nam không hay biết, cứ tiếp
tục nói như vào năm 1668, chớ quả thật chính họ không hề phát minh ra hai
danh từ Bông, Trái và Ghe. Ba danh từ đó, cổ Giao Chỉ đã có, và đó là danh
từ Mã Lai.
Một nhà học giả miền Nam cho rằng những kẻ càng đi xa, càng giữ gốc
(cụ Vương Hồng Sển, trong một bài diễn văn), nhưng cụ Vương không cắt
nghĩa được tại sao mà như vậy.
Sự thật thì không phải họ là công dân tốt, quyết tồn cổ, thích bảo vệ dân
tộc tính đâu, mà vì họ không hề hay biết gì về những biến đổi xảy ra ở đất
tổ.
Chúng tôi đã tìm được dấu vết làm bằng chứng trong quyển Thi văn đời
Trần của hai vị giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Nghiêm Toãn. Ta sẽ thấy rằng
vào đời Trần, người Bắc Việt nói Bông thay vì Hoa. Ở trang 11, có hai câu
ca dao:
Bao giờ đến tháng giêng hai