kiến trúc của trào Nguyễn sau 1700 đều rập y khuôn Trung Hoa, không
khác một nét, còn kiến trúc Lý, Lê, Trần thì là Việt Nam hơn nhiều.
Sự rập khuôn nầy ắt không do áp lực của kẻ thống trị bởi ta đã độc lập từ
lâu (không kể 14 năm của nhà Minh), mà do sự thán phục nó kéo theo sự
bắt chước, và phải mất ngót 800 năm, bắt chước mới y hệt được (về kiến
trúc) và sự bắt chước văn hóa Trung Hoa mạnh nhứt bắt đầu từ thời xây cất
Văn Miếu ở Hà Nội, đến thời tôn sùng các ông Nghè vào triều Lê, những
ông Nghè mà Nguyễn Huệ khi ra đất Bắc đã mỉa mai rằng: “Xứ nầy chỉ có
ông Nghè là quý nhứt”.
Đành rằng ông Nghè không dùng được vào việc gì hết nhưng đó là sự
tượng trưng cho nền văn hóa mà vua chúa ta xưa khâm phục.
Ngôn ngữ cũng chạy theo cái đà bắt chước đó, từ năm 1668, trước kia
vào thời Lê Đại Hành, Đinh Bộ Lĩnh, dân ta ở đất Bắc cũng nói Bông, trái,
ghe.
Đó chỉ là một lối giải thích của ông L. Bézacier, nghe thì rất hữu lý
nhưng chúng tôi cần tài liệu cụ thể để khỏi sai lầm. Chúng tôi tìm tòi và tìm
được bằng chứng, chớ không phải là suy luận như ông L. Bézacier nữa.
Sự kiện ngôn ngữ Việt chạy theo Hoa ngữ, chỉ mới xảy ra đây thôi, vào
năm Mãn Châu xâm lăng Trung Hoa.
Bản dịch Khâm định Việt sử thông giám cương mục của giáo sư đại học
Sài Gòn, ông Langlet đã cho ta biết nguyên do thay đổi kỳ dị ấy.
Khi Mãn Châu xâm lăng Trung Hoa thì bọn lưu vong nhà Minh tràn sang
Bắc Việt 10 lần đông hơn ở Nam Kỳ mà dân ta không hay biết. Ở Nam chỉ
có ba ngàn quân của bọn Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Dịch mà sách vở ta
cứ nói đến mãi không thôi, trong khi ấy thì Bắc Việt bị xâm nhập đến 50
ngàn.