từ sơ đẳng nhứt mà một dân tộc bán khai hẳn đã phải có mà không cần vay
mượn làm gì nữa hết.
Thí dụ điển hình nhứt là tiếng Nỏ, sau tiếng đó giáo sư ghi là Nôm, nhưng
lại thêm một cái dấu riêng, giống hình chữ V nằm. Dấu nầy ở chương Phàm
Lệ, được giải thích là “do tiếng Hán mà ra”. Sau cái dấu đó, quả nhiên giáo
sư viết chữ NỖ của Trung Hoa.
Vậy Nôm Nỏ do Nỗ của Tàu, và như thế thì đâu còn là Nôm nữa? Lại
mâu thuẫn.
Sự thật thì chính Tàu đã học tiếng Nỏ của Mã Lai Việt chớ Nỗ không
phải của họ.
Các nhóm Mã Lai Bách Việt đều có danh từ đó, xin kể ra đây, nhưng
không phải vì đa số đó mà chúng tôi chủ trương rằng Ná và Nỏ là của ta,
mà vì một luật tạo tự dạng Trung Hoa:
Việt Nam:
Ná, Nỏ
Cao Miên:
Snả
Mạ:
Na
Bà Na:
Hna
Sơ Đăng:
Mnaá
Gia Rai:
Hnaá
Thái:
Nả
Mã Lai:
Pnả
Người Trung Hoa khi họ bày ra một tự dạng mới, họ theo những cái luật
bất di bất dịch, chớ không phải viết càn. Ta thử chiết tự chữ Nỗ của họ xem
sao.