Chữ Noa cũng viết theo lối đó, nhưng với chữ Tử. Nhưng chữ Noa thì có
nghĩa hẳn hòi vì phụ hệ Trung Hoa xem vợ con như tôi tớ, về mặt tinh thần.
Nô + Tử là chữ tân tạo có nghĩa hẳn hòi, chí như Nô + Cung thì chắc chắn
là chữ phiên âm không còn ngờ gì nữa, cũng như chữ Phật chỉ là chữ phiên
âm mà thôi: Nhơn + Phất.
Nhưng ta cũng cố tìm xem coi Trung Hoa cổ thời có vũ khí Nỗ hay
không? Tài liệu tìm được ở trong một quyển sách thuộc loại rất cổ của họ,
đó là quyển Chu Lễ. Chu Lễ tả cây Nỗ khá tỉ mỉ, nhưng ta đừng nên thấy
Chu Lễ có tả cây Nỗ mà vội kết luận rằng Tàu đã phát minh ra Nỗ.
Trung Hoa đã tiếp xúc với Việt ở Kinh Man từ đời nhà Hạ, mà Chu Lễ thì
hơn một ngàn năm sau mới được soạn thảo. Đến cuối đời Tần, Tàu vẫn còn
kém về Nỗ. Có phải chăng là Triệu Đà đã rất sợ Nỗ của An Dương Vương?
Câu chuyện Nỏ thần có hoang đường bao nhiêu, cũng còn lại cái vũ khí rất
lợi hại của Bách Việt mà Tàu rất kinh sợ.
Tàu học của Việt ở đất Kinh Man rất nhiều, nhưng ít ai chú ý đến.
Trường hợp Nỏ và Nỗ nhắc ta nhiều danh từ khác. Thí dụ danh từ Đỗ của ta
mà ai cũng bảo là do Hán Việt Đậu mà ra. Không có bằng chứng nào như
thế hết mà còn có bằng chứng trái lại:
Việt Nam: Đỗ
Bà Na: Tở
Gia Rai Pleiku: Tả
Gia Rai thuần Mã Lai nhứt ở Đông Nam Á, thuần hơn cả Chàm và Java
nữa.
Trong trường hợp nầy, y như trong trường hợp trước, ta nói được rằng Cổ
Mã Lai cho vay, Trung Hoa là con nợ.
Chiết tự chữ Đậu, ta cũng thấy có sự lạ kỳ. Ngữ căn trong chữ đó chỉ là
bộ Thảo đầu, còn phần dưới không dính dáng gì tới một món ăn nào hết,