Chữ ấy gồm ngữ căn Cung để tượng hình, tức chỉ nghĩa, và tiếp vĩ ngữ
Nô (Nô bộc), dùng chỉ giọng đọc (Hài thanh).
Theo luật tạo tự dạng của Trung Hoa thì danh từ đó là danh từ tân tạo chớ
không phải là danh từ nguyên thỉ của dân tộc Tàu. Cung mới là nguyên thỉ
vì không có ngữ căn và ngữ phụ gì cả trong Cung.
Mà tân tạo thì có hai loại:
1. Loại hoàn toàn nội lực. Thí dụ chữ Dẫn, gồm ngữ căn Cung để
tượng hình và một sổ cũng tượng hình sự giương cung, không có
ảnh hưởng ngoại lai vì cả hai yếu tố đều có nghĩa, và đều là chữ
Tàu.
2. Loại phiên âm ngoại ngữ thì chữ tượng hình thứ nhứt vẫn là Cung
nhưng chữ tượng hình thứ nhì được thay bằng chữ hài thanh, hoàn
toàn vô nghĩa đối với Trung Hoa nhưng lại chỉ được cái âm ngoại
quốc mà họ phải theo.
Có lý nào mà cây Nỗ là một thứ Cung do Nô bộc hoặc Nô lệ sử dụng hay
không? Không, không thể nào mà có chuyện như vậy. Nô bộc không phải là
chiến sĩ, còn nô lệ có thể là chiến sĩ, nhưng không sao mà được phép sử
dụng một loại khí giới quá lợi hại (của thời đó).
Vậy Nô hoàn toàn vô nghĩa, và chỉ để phiên âm giọng đọc của chủ nhơn
môn võ khí ấy mà thôi, và Ná, Nỏ của ta không bao giờ do Nỗ của Tàu mà
ra, mà trái lại chính Tàu đã vay mượn của Mã Lai Việt cả món vũ khí lẫn
cái tên.
Lộ trình vay mượn có thể được hồi phục như sau đây. Sự vay mượn xảy
ra khi dân Trung Hoa di cư vào đất Kinh của chủng Việt, họ vay mượn cả
vật dụng lẫn lối đọc tên vật ấy. Pnả biến thành Nỗ. Riêng các nhóm Mã Lai
Bách Việt thì cứ tiếp tục dùng Na, Ná, Phả, Hná, Nỏ của họ. Người Tàu
viết chữ, ta đọc sai là Nỗ, chớ Quan Thoại thì đọc là Nũa.