Nên biết rằng Ngô Thì Sĩ là người sống ngang với trào nhà Thanh, nhưng
viết sách, lại dùng danh từ đời Hán mà Trung Hoa đã bỏ hơn một ngàn năm
rồi, như danh từ Am la đã cho thấy.
Như thế danh từ Ma lôi chắc cũng là danh từ Tàu đời Hán. Dưới đời Hán,
Tàu đã biết các đảo Mã Lai rồi.
Cái nón lá nhọn đỉnh của dân ta và của tất cả các dân gốc Mã Lai, được
người Mã Lai gọi là Tărăndắc Malaya.
Có lẽ ông Tàu đời Hán đã phiên âm, nhưng bỏ bớt âm, theo thói quen của
họ, trong cái danh từ quá dài đó, họ chỉ giữ lại có hai âm là Ma Lôi mà thôi,
bởi dân Việt ở Bến Vân Đồn thì ngoài nón Tàu ra không thể đội nón nào
khác hơn là nón nhọn đỉnh, biệt phẩm của chủng Mã Lai, mà cho đến ngày
nay dân ta còn dùng.
(Một điểm khiến ta phải ngạc nhiên là các sử gia ta, bất kỳ sống dưới đời
Minh, đời Thanh gì, cũng dùng danh từ đời Hán cả, thí dụ các ông gọi nước
Cao Miên là Chân Lạp. Đó là danh từ mà Tàu đã bỏ từ đời Đường. Nhưng
các ông Việt cứ tiếp tục dùng mãi. Ông Tàu bỏ rất hữu lý vì ông Cao Miên
đã bỏ và đã tự xưng là Kampuchia, nên ông Tàu đời Đường phiên âm là
Cam-Bố-Trí, Cam-Phá-Giá, hoặc Giản-Phố-Trại, cớ sao các ông Việt lại cứ
dùng danh từ đời Hán thì thật là khó hiểu).
Trung Hoa đã mượn chữ Phù là cây phù dung để phiên âm Trầu mà họ
không có. Phù đọc theo Quan Thoại là Pù hơi giống Plù mà Plù là lối đọc
có cái tiếng Trầu của ta mà nay người Mường còn đọc.
Mã Lai Bách Việt chỉ ăn trầu nhiều ở Đông Nam Á mà thôi, còn ở Quảng
Đông thì rất ít, vì họ không trồng trầu được. Hơn thế người Quảng Đông ăn
trầu, không hề nói rằng họ ăn trầu, mà nói rằng ăn cau: xực pín loòng (Thực
tân lang).