ngôn ngữ Mã Lai được các nước Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai Á
dùng làm thừa ngữ chánh thức, không thể dùng được, nên có sách nhiều
cũng như không, vì ba ngôn ngữ đó bị Phạn ngữ và Á Rập ngữ tràn ngập.
Mã Lai ngữ chánh hiệu, cổ sơ, là phương ngữ của các bộ lạc ở trong rừng
sâu, mà chúng tôi không có phương tiện học được.
Chỉ có người Hòa Lan là biết rõ thôi. Thế nên muốn học Mã Lai ngữ cổ
sơ, phải có hai quyển tự điển Hòa - Mã và Pháp - Hòa. Thí dụ muốn biết
danh từ Lá cây, Mã Lai chính hiệu nói sao, phải tra tự điển Pháp Hòa nơi
chữ Feuille xem Hòa nói thế nào. Rồi lại xem tự điển Hòa Mã cổ sơ coi Mã
cổ sơ dùng danh từ gì. Tìm một danh từ, mất đến 20 phút đồng hồ, có khi
hai tiếng đồng hồ, vì có quá nhiều bộ lạc, mà tự điển không có in để bán,
mà nằm trong đủ thứ tạp chí của Hòa Lan, rất khó tìm. Riêng Phi Luật Tân,
có hơn 70 phương ngữ khác nhau.
Từ ngày họ thu hồi độc lập, ở cả ba nước đó đều chọn một phương ngữ
quan trọng để làm thừa ngữ cho giáo dục và ngoại giao. Sự chọn lựa nầy,
khác hẳn ở Ấn Độ, tức không căn cứ trên số đông người nói mà căn cứ trên
cái phương ngữ nhiều khả năng nhứt, tức diễn được dễ dàng nhứt những
việc trừu tượng, những cảm nghĩ tế nhị.
Ở Anh-Đô-Nê-Xia thì phương ngữ của đảo Java được dùng làm ngôn
ngữ chánh thức cho toàn quốc vì đảo ấy xưa kia chịu ảnh hưởng Ấn Độ
nhiều, đã lập được một nền văn minh rực rỡ với nhiều sách vở. Ngôn ngữ
đó tên là Jawi.
Ở Phi Luật Tân thì phương ngữ Tagal được chọn, Tagal, kém hơn Jawi vì
Phi chưa bao giờ có văn hóa cao như Java.
Nhưng đại để cũng y như Việt ngữ, là vay mượn rất nhiều của cái nước
khai hóa là Ấn Độ, như ta đã vay mượn của Tàu.