Mã Lai: Bônga Việt Nam: Bông Chàm: Bơngư
Mã Lai: Sôngai Việt Nam: Sông Chàm: Krong
Mã Lai: Tangan Việt Nam: Tay Chàm: Tangưl
Có nhiều danh từ Mã Lai bị Chàm bỏ mất luôn như Gunông và Phunông
họ không biến thành Non thành Gò nổng như ta, mà nói là Chớ, một danh
từ của chủng Mê-la-nê.
Không ai hiểu tại sao các ông Tây nhận diện được Chàm là Mã Lai, qua
ngôn ngữ, mà không nhận diện được ta. Vâng, họ chỉ nhận diện được Chàm
là Mã Lai, nhờ ngôn ngữ, chớ không nhờ chứng tích nào khác cả, trước
cuộc đối chiếu kiến trúc Mã Lai và Chàm của ông Claeys.
Biểu số 54
Việt Nam: Mái (Giống cái của loài cầm)
Sơ Đăng: Maai (Vợ)
Cao Miên: Maai (Cung phi)
Gia Rai: Amaai (Chị cả)
Bà Na: Mmaai (Chị cả)
Bà Na: Maai (Cô dâu)
Khả Lá Vàng: Prmay (Con gái)
Chàm: Cà May (Đàn bà)
Trong xã hội Chàm, người Mã Lai đợt II chiếm đa số, nhưng danh từ Cà
May lại là danh từ của Mã Lai đợt I chớ người Nam Dương, đàn bà họ nói
là Wanita, còn người Đa Đảo nói là Wahinê.
Xin nhắc rằng ở Bắc Chiêm Thành, tức Lâm Ấp, Mã Lai đợt I đa số tuyệt
đối, mặc dầu chính Mã Lai đợt II lập quốc.