Chúng tôi biết, hơn thế nhờ đó mà chúng tôi viết được cả thượng cổ sử
Chiêm Thành nữa, chớ cho đến nay sách vở cũng chỉ viết được kể từ thế kỷ
thứ hai (II) sau Tây lịch, tức cũng chưa xứng đáng là cổ sử nữa, chớ đừng
nói là thượng cổ sử.
Chuyện lặt vặt thì nhiều vô số kể, nhưng thật ra thì đều là đại sự cả chớ
không có lặt vặt tí nào, chỉ lặt vặt đối với đại chủng Mã Lai, chớ rất to tát
đối với Việt sử.
Chẳng hạn, chúng tôi biết (xin xem chương riêng) nhờ ngôn ngữ tỷ hiệu,
rằng người Mường thuộc Mã Lai đợt II, đó là chuyện lớn, vì cho đến nay,
chưa ai biết người Mường là ai cả.
Nhưng to hơn chuyện người Mường, là chuyện Hùng Vương. Nhờ biết rõ
người Mường mà chúng tôi biết rằng quả có vua Hùng Vương và ông vua
đó quả lấy vương hiệu là Hùng Vương, một đề tài tranh luận lớn trong giới
trí thức ta, chưa ngã ngũ được, vì chưa ai biết rõ người Mường, họ là nhơn
chứng nói cho ta biết là có vua Hùng Vương và vua Hùng Vương thuộc đợt
I.
Hay quá sức hay!
Lặt vặt là vua Hùng Vương nói Chơn, còn bọn đợt II tới sau nói Cẳng,
còn thuở trước Mê-la-nê thì nói Giò.
Ta biết bọn đợt II đã đưa yếu tố văn minh nào để giúp vua Hùng Vương
kiện toàn văn hóa. Họ đưa Trống Đồng, nhưng đó không do ngôn ngữ đối
chiếu cho ta biết. Họ đã đưa lưỡi hái đến, trong khi vua Hùng Vương chỉ có
lưỡi liềm và lưỡi A. Họ đưa đôi đũa ăn cơm đến mà họ gọi là Đua-đua.
Đua = Hai, cặp, đôi
Ta có thể biết xa hơn nữa thế kia, chẳng hạn Nhựt Bổn thuộc nhóm nào
trong khối Mã Lai.