dân đó hầu dễ cai trị họ, bao nhiêu người ấy đều biến thành Thổ, thành
Thái, thành Mán hết ráo, qua vài đời hợp chủng. Nhưng quý tộc Thái, Mán,
Thổ đều cứ còn vẻ Việt Nam hoài hoài, mặc dầu họ theo phong tục Thổ,
Mán, Thái, nghĩa là trông họ thì biết ngay là họ gốc người Việt, khác xa
những người chung quanh họ. Tóm lại nếu người ngoài đến xứ ta, mà thiểu
số thì bị ta nuốt mất, còn như họ là đa số tuyệt đối, thì chính họ biến thiểu
số chung quanh theo họ, còn họ thì cứ còn là họ mãi mãi, về vóc dáng và về
mẫu người. Nhưng dân Việt Nam thì thấy là biết ngay tức khắc là không
phải người Tàu, trừ những người mới lai căn một đời.
Cũng nên biết rằng Madrolle đã đo sọ người Mường trước khi cô J.
Cuisinier khảo cứu người Mường, nhưng cô J. Cuisinier không dùng tài liệu
của Madrolle vì thấy rằng Madrolle làm việc sai nguyên tắc. Trong một xã
hội gồm hai chủng quá rõ rệt, không thể đo hồ lốn mà có được một chỉ số
có giá trị nào.
Và quả chỉ số sọ của người Mường khác xa chỉ số sọ của người Việt như
ta đã thấy ở chương chỉ số sọ, vì bần dân và phụ nữ của họ, thuộc chủng
khác. Chúng tôi nói rằng chỉ số sọ là chứng tích quyết định, nhưng phải biết
sử dụng nó, và trường hợp từ chối sử dụng của cô J. Cuisinier thật là hùng
biện. Madrolle đã đo sái nguyên tắc, nên không dùng được. Thế nên ở Hoa
Bắc chúng tôi mới tự ý bỏ sọ Đông Sơn ra và có giải thích tại sao. Để sọ
Sơn Đông vào là sẽ sai tất cả như Madrolle đã làm sai về người Mường.
Thế nên cô J. Cuisinier đành chỉ dùng mẫu người và vóc dáng mà thôi, y
như là không có Madrolle bao giờ, nhưng chính trong sự thiếu sót của cô,
mà cô thấy sự thật rõ hơn và ta cũng được biết sự thật rõ hơn về vấn đề
chủng tộc ở xứ Mường.
Chỉ số sọ là chứng tích quyết định nhứt, nhưng khi làm việc theo lối
Madrolle thì nó lại hóa ra gạt gẫm nhứt.