giản dị hóa, tức trở lại ý nghĩa Việt nguyên thỉ là cái rìu, vừa nói lên được
tình trạng hỗn loạn, lại vừa không bỏ mất ý niệm lưỡi rìu như chữ Việt thứ
ba đã bỏ mất.
(Nhưng tự điển Đào Duy Anh lại viết chữ Việt thứ ba ấy với chữ Thú chớ
không phải chữ Tuất).
Thật ra thì hai chữ đó quá giống nhau, chỉ có cái chấm là khác nhau mà
thôi, và có lẽ thợ nhà in của Đào Duy Anh đã sắp lầm chăng?
Nhưng trong bản chánh thì không thấy có cải chính. Mà nếu là Thú thì là
Tàu đã dùng tự dạng rất hay, vì bọn Việt thứ ba đó là bọn Việt Vượt Hà để
Tẩu, nhưng có đồn thú lại sau khi Vượt Hà, chớ không chạy biệt dạng như
bọn Âu.
Nhưng dầu sao, tự dạng thứ ba cũng chỉ là động từ thường mà Tàu đã có
sẵn rồi, và chỉ được Khổng Tử mượn âm để làm tên dân hầu phân biệt hai
thứ Việt mà họ chợt biết là có hai thứ khi Sở bành trướng xuống Hồ Nam,
gặp Âu ở Quý Châu, chớ không có hàm ý nghĩa gì rõ rệt như Việt nguyên
thỉ hay Việt bộ Mễ.
Chữ Việt thứ tư chỉ Việt Nam ngày nay, được toàn thể báo Tàu ở Chợ
Lớn dùng, tuy sai, về nguyên tắc, nhưng lại đúng hơn Việt thứ ba, vì nó trở
lại ý niệm lưỡi rìu.
Sự phân biệt hai chi bằng hai tự dạng xảy ra trễ lắm cũng vào năm 672
T.K. Có thể họ đã phân biệt trước đó nữa và tự dạng thứ ba đã có trước đó.
Nhưng không còn dấu vết gì khi chúng ta chỉ biết xem thư tịch là mốc dấu
độc nhứt và chắc chắn mà thôi.
Lại tịt ngòi trong 50 năm nữa, tức cho tới năm 613 T.K. thì dân Việt lại
được đếm xỉa tới. Lần nầy kẻ điểm dân Việt là Tả Khâu Minh.