Họ bỏ Lê, Lạc, Bách Bộc, dùng danh xưng Bách Việt, vì thấy rằng có rất
đông Việt (chữ Bách, theo Tàu cũng có nghĩa là nhiều là đông, chớ không
phải luôn luôn có nghĩa đích xác là một trăm), nhưng lần nầy thì họ đã phân
biệt Bách Việt được bằng cách khác rồi. Bách Việt đã dựng nước thì họ
phân biệt đám ấy bằng tên các nước, về mặt chánh trị.
Về mặt chủng tộc, họ phân biệt bằng tự dạng, như đã nói, U Việt, Mân
Việt thì viết với tự dạng thứ ba, tức Việt là Vượt, còn Đông Âu và Tây Âu
thì trỏ bằng tự dạng thứ nhì, tức Việt bộ Nguyệt mà dân ta gọi là bộ Mễ.
Việt Vượt chỉ chi Lạc.
Việt Mễ chỉ chi Thái.
Nhưng xin nhớ rằng ở giữa Mân Việt và U Việt, có Đông Âu mà chúng
tôi cho rằng đó là một nhóm Âu tức Thái đã chọc thủng đất của dân Lạc để
tìm đường ra biển, vì lý do kinh tế.
Vì đó là một quốc gia tạm bợ, nên họ chỉ nói đến về mặt chánh trị nhưng
lờ đi về mặt chủng tộc, xem địa bàn Lạc, tức địa bàn Việt-Vượt như là liên
tục từ Cối Kê đến Phúc Kiến, từ thuở ấy cho đến ngày nay.
Vả lại dấu vết Âu tức Thái ở Bắc Phúc Kiến và Nam Triết Giang không
còn gì cả, sự kiện ấy chứng minh rằng nước Đông Âu thành lập nhờ chiếm
đất của chi Lạc, nhưng không thọ được bao nhiêu năm đáng kể. Từ Cực
Nam Triết Giang tới Phúc Kiến, hiện nay ngôn ngữ cứ là ngôn ngữ Mân,
không có ngôn ngữ Âu. Ngày nay ở đó người Tàu nói tiếng Tàu sai y hệt
như nhau, không có nơi nào sai giọng theo lối Quảng Đông, tức sai theo chi
Âu cả. Sự kiện ấy cho ta biết rõ nước Đông Âu là một quốc gia lỏng lẻo và
phù du.
Ba nước Việt mà Ngô Khởi ký hiệp ước thân hữu là Việt nằm sẵn tại chỗ
hay Việt của Sở, Ngô Việt chạy xuống đó rồi lập quốc?