thật sự không tả cảnh trong lời khấn vái bao giờ. Đó là chi tiết không ai
thấy.
Chúng tôi không có bản Sở từ nào trong tay hết và dưới đây là lượm lặt
những phân tách của Granet, Chavannes và nhứt là của H. Maspéro. Những
vị nầy phân tách Cửu Ca vì mục đích khác chớ không phải để dùng làm
chứng tích như Lăng Thuần Thanh hay như chúng tôi, nên hóa ra cuộc phân
tách của họ có tánh cách khách quan tuyệt đối, đối với luận cứ của chúng
tôi. Chúng tôi có thể phân tách cho nó nghiêng ngả theo ý mình muốn
nhưng quý vị trên đây làm sao biết được về sau chúng tôi muốn gì về thổ
dân của nước Sở, để mà phục vụ chúng tôi.
Cửu Ca gồm 11 bài tất cả, nhưng các nhà nho Tây trên không cho biết
các ông nghiên cứu riêng bài nào và có lẽ là nghiên cứu chung cả 11 bài,
khác với Lăng Thuần Thanh chỉ nghiên cứu riêng bài Đông Quân, chú mục
ca ngợi thần mặt trời trong đó, ca ngợi ấy ăn khớp với hình mặt trời của
trống Đông Sơn. Ba nhà nho Pháp nói trên có cho biết thêm nhiều chi tiết
khác nữa.
Tác giả Cửu Ca tả các bà đồng ăn mặc rực rỡ như các vị thánh mà các bà
chầu mời (Thần Mưa, Gió, Mây, Núi, Sông, Mặt trời, v.v.), y phục các thần
thánh cũng được tả, rồi các bà múa theo nhịp trống kèn càng lúc càng quay
cuồng. Lời Chầu mời tỏ lòng tưởng nhớ các thánh thần đó, nhưng không có
hạ mình trước các thánh thần, chỉ coi các thánh thần là bầu bạn mà thôi.
Các bà nhại các chuyến đi đến nơi ngự của thánh thần bằng những cuộc
múa vũ. Và lời tỏ lòng tưởng nhớ bắt ta nghĩ đến tình yêu hơn là lòng thành
khẩn đối với thánh thần.
Các bà vừa múa vừa kêu gọi thánh thần như vậy cho đến khi các bà lả
người, ngã xuống là lúc các bà đã đến nơi rồi. Các bà bèn có những cử chỉ,
những lời lẽ mời thánh thần giao hợp với các bà. Có như thế, những gì các
bà nói, mới chắc chắn là lời thánh nói, bởi sự giao hợp có giá trị như là nhất
hóa hai nhân cách (Union de deux personnalités à tous les points de vue).