Chị em nặng một nhời nguyền...
Con chị cõng thằng em, thằng anh cõng gái bé, dì bé ôm cháu gái, cái
cháu theo dì bé... đầu ngõ cuối xóm, ngoài đồi, gốc ổi, gốc cau, bờ suối, bụi
sim... đâu có trẻ con chơi là có tiếng ngân nga như hát với nhau. Không kể
những lúc đánh võng cho em, hay vừa bế xốc, vừa ôm em để ru chúng nó
ngủ... Cả các trẻ đi trâu, đi cỏ, cũng thuộc, cũng đọc.
Tới năm kháng chiến chống Mỹ, tôi ở trường bồi dưỡng anh chị em
viết văn trẻ thường thường đạp xe đi về qua đường Hồ Tây. Những buổi
sáng sương mù, những buổi chiều sương khói, đoạn sử kia càng nổi lên với
không biết bao nhiêu hình tượng và màu sắc. Trên mặt hồ và như cả trời
mây đều có bóng cờ, giáp mã, đao kiếm, tiếng voi, ngựa, chiêng trống và
quân reo. Cái cảm tưởng thời thơ ấu vừa man mác vừa bâng khuâng lại
sống lại, càng thấy quý báu vô ngần.
... Phải, trong sử đã ghi rõ ràng Hai Bà đã nhảy xuống sông Hát Giang
tự vẫn, còn Trần Bình Trọng thì đã bị quân Nguyên đem chém. Nhưng sao
cả khi đọc xong những chữ in trên đây và mãi mãi sau này, mỗi lúc tưởng
nhớ, tôi vẫn thấy cả Hai Bà Trưng và tướng Trần Bình Trọng tuy không còn
nữa nhưng không phải là chết!
- "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc!".
Trong cuốn Sử ký giáo khoa thư, Trần Bình Trọng đeo kiếm, hai tay bị
trói chắp sau lưng, người cao lớn, đứng ngẩng mặt lên mà nói câu trên đây
trước đám giặc. Tôi cứ phải mang hình ảnh đó cùng với Hai Bà Trưng cỡi
voi, vung kiếm, phất cờ ở cả trước mặt và trong tâm trí tôi, không những y
nguyên mà còn thấy nhấp nhô, rùng rùng chuyển động và như có thể biến
hóa làm thành nhiều thế khác, nhiều việc khác, nhiều cảnh khác...
Trần Bình Trọng thì giựt tung dây trói, tuốt gươm chém chết cả bọn
tướng giặc lẫn quân canh giữ, cướp ngựa, vượt khỏi mấy trùng vây, trở về