thịt ở chợ, sau nhà mở hàng cơm, bà tôi trông coi. Ngày còn người chị trên
đốt cha tôi thì bà buôn cau tươi, cau khô.
Một trong những hình ảnh và khắc giờ sâu đậm nhất của trí nhớ tôi là
khi bà tôi đọc kinh một mình hay ngồi kể chuyện cho tôi nghe và nghe tôi
đọc truyện.
Dạo còn dọn hàng cơm, những buổi trưa vắng khách, những buổi tối
cả nhà ai nấy đều mệt mỏi, bà tôi lại lần tràng hạt ở ngay ghế ngồi bán
hàng, hay ở đầu giường phía dưới bàn thờ. Nếu đi nhà thờ, bà tôi ngồi cạnh
dưới chân tòa giảng, phía trước mặt là một cột đá treo bức tranh chúa Giê-
su vác cây thánh giá. Tôi thường dắt bà tôi đi. Tay cắp chiếu võng, tay sẵn
sàng nắm lấy bàn tay, cánh tay bà tôi để giữ, để đưa bà tôi qua đường, tránh
ô tô, bước khỏi rãnh, bờ hè rồi lên bậc thềm đá, đến tận cửa nhà thờ. Tôi
chỉ ngồi với bà tôi một lúc rồi tìm đủ cách bỏ ra ngoài chơi. Cũng có buổi
tôi đưa bà tôi vào chỗ quen, ngồi một mình ở đấy, rồi tôi mải chơi quá, tan
chầu, hết giờ đọc kinh, bà tôi đã ra mấp mé thềm đá, tôi mới ù té tới đón.
Chỉ có buổi giỗ ông tôi, hay mấy ngày tết và ngày lễ trọng, đọc kinh
chung với cả nhà, bà tôi mới thỉnh thoảng đọc to tiếng, đọc thành giọng,
thành câu. Còn thì bà tôi chỉ lào thào lào thào, nhiều khi chỉ thấy những
tiếng xuýt xoa rồi lặng hẳn. Năm xưa đọc kinh cũ, nghe bà tôi thều thào:
"A-ve Ma-ri-a đày Ca-ra-sa chúa Giêu ở cùng bà nữ vương đầy phép lạ",
thì tưởng như bà tôi là người dân Do Thái hay là kẻ nghèo hèn quê mùa
nhất của một vùng cổ xưa bên Tây Ban Nha hay Y Pha Nho sùng đạo,
không còn ai là kẻ ruột thịt thân thương trên trái đất, đang nguyện ngắm về
sự chết vậy!
Mấy năm cuối đời, nhà ở xa, bà tôi không bảo tôi dắt đi nhà thờ nữa.
Có chủ nhật, vì mưa gió hay vì thấy yếu trong người quá, bà tôi bỏ cả đi lễ.
Nhưng chiều hôm, ban sáng, bà tôi vẫn giữ lệ đọc kinh đều. Tối mùa hè
cũng như mùa đông, bà tôi ngồi trong màn lần tràng hạt đoạn ngủ ngay.
Còn buổi sáng, bà tôi nhóm bếp, nấu nước sôi, pha chè uống một mình, sau