nếu "ông ấy" vẫn không chạy vạy tiền đâu được nữa, thì tôi cứ lên nhà bác
tôi mà ăn, hay không ăn thì bảo "chúng nó" cho tiền. Cái L. nó không tiếc
gì em đâu! Nó bảo sao bà cứ không chịu bảo cậu ấy lên chơi. Tới đây thì tôi
thấy như nghe tuyên án vậy.
Thế là tất cả những nơi những chốn ở Hải Phòng để mẹ tôi nhờ cậy đã
cùng kiệt rồi. Cũng như có thể chuyến này chúng tôi đành bỏ Hải Phòng để
vào trong Vinh mà tìm cách sinh sống thôi. Được! Tôi hẵng chờ, trong khi
mẹ tôi đi cầu phong, tôi vẫn cứ phải viết đã. Viết để hoàn thành hẳn hoi một
tác phẩm. Viết cũng để không phải nghĩ tới bao nhiêu cái không hay, những
điều rất có thể là thê thảm sẽ đến.
Ra giêng năm ấy trời càng rét.
Càng rét vì mưa dầm. Những ngày gió bấc mưa phùn mờ ảm, hun hút
như không bao giờ hết. Cửa sổ tôi đã phải đóng chặt lại còn chít thêm giẻ,
thêm giấy. Những ngọn gió lùa vừa sắc, vừa nhọn vừa buốt đã bịt được,
nhưng khí lạnh vẫn rỉ vào. Lắm lúc tôi chợt thấy mặt, thấy trán như dại,
như chết, và ngực đau nhói, nặng nặng tức tối lạ lùng...
Ngày ngày cứ gần về chiều tôi càng thấy như ngồi trong một thứ quan
tài vô hình làm bằng hơi ẩm, gió lạnh và bóng mờ. Còn tiếng muỗi đói ran
ran ri ri là nền của một dàn bát âm cũng vô hình, trùm lên người mình. Tôi
phải đội cả mũ, mặc áo dài, đi giày "giôn" mà ngồi viết. Không thể khoác
chăn - muốn thế nào tôi cũng đang là trai tráng - tôi gập đôi chăn kẹp vào
bụng và phủ lên cả đầu gối bắp chân để thêm hơi ấm và bớt muỗi đốt.
Với hào rưỡi mẹ tôi giấu cho, không nhớ tôi đã ăn kẹo lạc bánh ngô
hay bánh chưng, hay phở, hình như chỉ có kẹo lạc và bánh ngô thì phải.
Bánh ngô tôi ăn buổi sáng để chờ bữa cơm chiều. Còn kẹo lạc ăn khuya để
nhấm nháp tận hưởng sự ngon ngọt, chống lại cái đói ê ẩm thấm thía vô
cùng trong đêm mưa lạnh hoang vắng... Kẹo một xu một chiếc. Bánh cũng
thế. Nhiều hôm tôi ăn cả bánh sáng, cả kẹo khuya. Hơn nữa, có buổi mua