ình ình hết tốp này đến tốp khác chỉ thấy kìn kìn đi lên. Ngựa thồ, lừa thồ,
phu gánh, mã phu và lính khố xanh, lĩnh dõng rầm rập hai bên đường. Lại
có tàu bay. Tàu bay lượn đi lượn lại trên đầu mọi người, trông thấy rõ cả cờ
sơn tam tài, chở gì nặng lắm, chạy công việc gì cần kíp lắm, hệ trọng lắm.
Chiến tranh bên Tây nghe đâu lại càng to. Nước Đức đánh tràn thêm
ra bốn năm nước nữa. Bên này nước Nhật lại chiếm thêm nhiều tỉnh lớn
của nước Tàu. Hà Giang phải xây pháo đài và mở cả trường bay là đề
phòng quân Nhật tràn sang đây. Tình hình như thế, không biết ở Hải Phòng
thế nào? Ba anh em thằng La chúng nó, khi xảy ra cơ sự không hay sẽ ra
sao đây?
Mẹ La lại nghĩ đến những chuyện xôn xao đồn thổi cả ở ngoài phố,
ngoài chợ, bến ô tô, trong đề lao, trong trại lính. Nhất là cái việc đề lao xây
cao thêm một thước tường đá bên ngoài và một hàng cửa sắt bên trong! Rồi
khi nào mắc xong điện bên nhà quan tư, nhà quan giám, đề lao cũng có đèn,
thì cũng chăng dây thép điện ở bốn bề tường như hỏa lò Hà Nội vậy. Còn ở
trại to đương lắp thêm hai dãy cùm sắt, hễ động dạng cả tù án nhẹ cũng bị
cùm hết...
Mặt mẹ La thượt hẳn ra. Mẹ kêu khe khẽ "ôi giời ơi!" vừa thở hắt một
tiếng như cả ruột gan đều đứt. Mẹ khòm khòm cái lưng đứng dậy. Vừa lúc
có tiếng xiềng và tiếng thở ì ạch hừ hừ đi đến:
- Bá La kìa! Bà cụ nhà ông loong toong nhà thương đã về chợ đấy. Bà
cụ bảo mua cả đỗ xanh cho bá. Bá xiết ngâm, bớt lại bao nhiêu, bá bảo bà
cụ.
- Chết! Chết! Bà cụ về chợ rồi à?
Mẹ La toan chạy nhưng thấy người tù ốm tê thấp nọ có ý muốn nói gì
với mình, liền hỏi: