nâng đỡ lấy cán cờ thôi. Còn "chúng nó" làm cố bực giận là hai con mẹ lão
bà cầm dải cờ đi sau cố.
Cứ như lão bà mẹ nhà hường lô hường liếc gì kia, đã gần tám mươi
tuổi và là người cố cựu ở xứ Hải Phòng, góa chồng từ năm hai mươi ba, ở
vậy nuôi cho con đi học đỗ làm được đến thông phán rồi được phủ toàn
quyền thưởng cho hường lô, như thế cũng còn khả dĩ. Hay lão bà mẹ nhà
chánh trương có con rể làm tuần phủ cũng vậy. Đây cái con chột mắt, người
gày và đen như con mắm, mặt mày dữ tợn như quỷ Luxiphe, thì chỉ là vợ
cái thằng sang Tây làm lính bổ củi và khiêng thùng rác. Thằng nọ cậy cục
lên được chân nấu bếp cho quan năm rồi xin vào được làng Tây rồi đi mặt
trận làm thông ngôn, rồi đi học, rồi leo lên làm quan một. Mụ ta hơn chồng
những mười tuổi mà chồng thì mới năm tư năm nhăm. Mụ được vào lão bà,
được xếp vào hàng cầm dải cờ Bà Thánh Quan thày cùng với cố bà Đức
Sinh, như thế có phải là cứt cũng như rươi, tám chín mươi cũng là một tiền
không?!...
Lại còn cái con mẹ thằng nghị viên nghị hòn gì kia nữa! Giời đất thiên
địa! Cũng phú gia, cũng quyền quý! Thằng con nhà nó làm hàng sũ, chuyên
bán quan tài cho các trại lính, nhà pha, nhà thương, chỉ nhờ cái dịp ghép
một cỗ ván bằng gỗ trầm cho thống sứ Bắc Kỳ để nó đưa xác con nó về
Tây, nó cho làm nghị viên, thế rồi phất!... Phất thầu cơm nhà pha, thầu cơm
trại lính, thầu cu li đi Tân thế giới, đi cao su đất đỏ, rồi gần đây thầu phu
làm bãi tàu bay, thùng phần với thằng chồng con mẹ chột mắt kia! Bốc vác
như thế mà cũng là phú gia, cũng là quyền quý!
"Cái ngữ phú gia quyền quý ấy thì đi xách cặp, chạy giấy cho thằng
Thy San nhà tao, hay bưng bô rửa đít cho con vợ nó cũng không đáng!"
Cố bà Đức Sinh cứ phải nghĩ ngợi và càng dằn dọc trong lòng. Mồ hôi
đằm thêm cái lưng của cố nẵn thịt cứ ngứa rồm rộp. Người con dâu thứ như
đoán biết được sự nhọc nhằn khổ sở của bà cố mẹ chồng, lại vội vàng quạt
quạt với cái quạt phất bằng vóc, nan bằng ngà, nhài bằng vàng mà y chỉ