định bởi một mức lãi suất rất khiêm tốn. Xét về mặt nội tại lý thuyết này rất
nhất quán và có một nhược điểm duy nhất là nó không thể áp dụng đối với
bất kỳ loại hoạt động kinh tế thực tiễn nào, đặc biệt là đối với hoạt động của
các doanh nghiệp tư nhân.
Thuyết 80/20 cho doanh nghiệp
Ngược lại với thuyết cạnh tranh hoàn hảo, thuyết 80/20 cho doanh
nghiệp vừa có thể kiểm chứng được (và trong thực tế đã được kiểm chứng
nhiều lần) vừa hữu dụng như là một cẩm nang hành động. Thuyết 80/20 cho
doanh nghiệp đưa ra những nhận định sau:
Trong bất kỳ thị trường nào, có vài nhà cung ứng luôn làm tốt hơn
những nhà cung ứng khác trong việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Những
nhà cung ứng này sẽ đạt được mức giá bán cao nhất cũng như thị phần cao
nhất.
Trong bất kỳ thị trường nào, có vài nhà cung ứng luôn làm tốt hơn
những nhà cung ứng khác trong việc giảm thiểu tỷ lệ chi phí trên doanh thu.
Nói cách khác, sản phẩm của những nhà cung ứng này sẽ có giá thành thấp
hơn sản phẩm của những nhà cung ứng khác, với cùng sản lượng và doanh
thu; hoặc là họ có khả năng tạo ra sản lượng tương đương nhưng với chi phí
sản xuất thấp hơn.
Một số nhà cung ứng luôn tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn những nhà
cung ứng khác. (Tôi sử dụng cụm từ “giá trị thặng dư” thay cho “lợi nhuận”
bởi vì cụm từ sau thường ám chỉ lợi nhuận để chia cho các cổ đông. Khái
niệm giá trị thặng dư ám chỉ đến nguồn ngân quỹ sẵn có để chia lợi nhuận
và tái đầu tư, ngoài những thứ cần thiết thông thường để đảm bảo cho bộ
máy hoạt động). Giá trị thặng dư cao sẽ dẫn đến một hay nhiều thứ sau đây:
(1) tái đầu tư nhiều hơn cho sản phẩm và dịch vụ, nhằm sản xuất ra sản
phẩm/ dịch vụ ưu việt hơn và hấp dẫn khách hàng hơn; (2) đầu tư vào việc
giành thị phần thông qua nỗ lực tiếp thị và bán hàng nhiều hơn, và/hoặc
thôn tính các hãng khác; (3) đem lại lợi ích cao hơn cho người lao động,
điều này thường có khuynh hướng ảnh hưởng đến việc giữ chân và thu hút
nhân tài trên thị trường; và/hoặc (4) đem lại lợi ích cao hơn cho cổ đông,