Ở cấp độ thấp nhất của sự tổng hợp các nguồn lực trong một công ty,
chẳng hạn như một cá nhân người lao động, thì 80% giá trị thu được có thể
được tạo ra từ một phần nhỏ, xấp xỉ 20% khoảng thời gian làm việc, khi
người lao động đang hoạt động với năng suất cao gấp nhiều lần mức hiệu
quả trung bình của người ấy, thông qua một sự phối hợp các yếu tố bao gồm
các cá tính và bản chất thật sự của công việc.
Do đó, nguyên tắc bất cân đối giữa nỗ lực bỏ ra và phần thưởng nhận
vào có mặt ở mọi cấp độ trong kinh doanh: thị trường, phân khúc thị
trường, sản phẩm, khách hàng, các bộ phận và người lao động. Sự mất cân
bằng này, chứ không phải là khái niệm cân bằng, mới chính là đặc trưng của
mọi hoạt động kinh tế. Hiển nhiên rằng những khác biệt nhỏ lại tạo ra
những hậu quả lớn. Một sản phẩm chỉ cần tốt hơn sản phẩm cạnh tranh của
nó 10% là có thể tạo ra được 50% khác biệt về doanh số và 100% khác biệt
về lợi nhuận.
Ba ý nghĩa hành động
Ý nghĩa thứ nhất của thuyết 80/20 là các công ty thành công thì hoạt
động trong những thị trường có khả năng giúp cho công ty đó tạo ra doanh
thu cao nhất với công sức thấp nhất. Điều này đúng một cách tuyệt đối lẫn
tương đối, tuyệt đối trong mối tương quan với lợi nhuận bằng tiền; và tương
đối trong mối tương quan với cạnh tranh. Một công ty không thể được xem
là thành công trừ phi đạt được giá trị thặng dư tuyệt đối cao (theo thuật ngữ
truyền thống, là tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư cao) đồng thời cũng có
thặng dư cao hơn so với đối thủ cạnh tranh của nó (lợi nhuận biên tế cao
hơn).
Ý nghĩa thực tiễn thứ hai cho các công ty là luôn có khả năng nâng cao
thặng dư kinh tế với cấp độ lớn bằng cách chỉ tập trung vào những đối
tượng khách hàng và phân khúc thị trường hiện đang đem lại giá trị thặng
dư lớn nhất. Điều này hàm ý việc bố trí lại các nguồn lực vào các phân khúc
tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất, đồng thời ngụ ý việc giảm thiểu mức tổng
nguồn lực và chi phí (nói cách khác, là giảm thiểu nhân công và các chi phí
khác).