thiết yếu đối với nhau. Chừng nào mà sự kết hợp đó chưa hình thành thì ý
tưởng, mặc dù khả thi trong phòng thí nghiệm, vẫn không đạt được tính khả
thi trong thực tế[2].
[2]. Tác giả cảm ơn Alan Graham (đồng nghiệp tại MIT) về ý tưởng
rằng một cách tân thật sự xảy ra thông qua việc gắn kết những công nghệ
khác nhau thành một sự kết hợp đồng bộ mới. Xem A.K. Graham, Thiết kế
phần mềm: phá vỡ nút thắt cổ chai (Software Design: Breaking the
Bottleneck), IEEE Spectrum (03/1982) trang 43-50; A.K. Gramham và P.
Senge, Giả thiết về song dài của cách tân (A Long Wave Hypothesis of
Innovation), Technological Forecasting and Social Change (1980) trang
283-311
Anh em nhà Wright đã chứng minh việc bay lượn bằng động cơ là có
tính khả thi, nhưng chiếc McDonnel Douglas DC-3, được giới thiệu năm
1935, mới là sự khởi đầu của kỷ nguyên đi lại bằng máy bay thương mại.
Chiếc DC-3 là chiếc máy bay đầu tiên tự vận hành về mặt kinh tế học cũng
như khí động học. Trong suốt 30 năm đó (thời gian điển hình để ấp ủ một
cuộc cách mạng cơ bản), vô số thử nghiệm máy bay thương mại đã thất bại.
Cũng như những thử nghiệm ban đầu với tổ chức học tập, những chiếc máy
bay đầu tiên cũng không đáng tin cậy và có hiệu quả về mặt chi phí trên
quy mô thích hợp.
Thoạt tiên, chiếc DC-3 kết hợp 5 kỹ thuật thành phần để tạo nên một
sự đồng diễn thành công. Đó là: cánh quạt có thể thay đổi độ cao, thiết bị
hạ cánh có thể xếp lại, kết cấu thân máy bay bằng vật liệu nhẹ được gọi là
“monocque”, động cơ làm mát bằng sức gió, và cánh máy bay. Để thành
công, chiếc DC-3 cần cả năm yếu tố trên, thiếu một cũng không được. Một
năm trước đó, chiếc Boeing 247 được sản xuất mà không có cánh máy bay.
Các kỹ sư của Boeing khám phá ra máy bay mà không có cánh sẽ mất
thăng bằng khi hạ cánh hoặc cất cánh, và họ phải giảm kích cỡ của động
cơ.