tiếng của nước ấy. Nước ta là một nước có tên tuổi vào hàng nhì của
phương Đông vậy mà chỉ một mình nước ta không có chữ viết. Có phải tại
trời không thương ta chăng? Không, đó là lỗi tại ta học chữ nước ngoài lại
tôn sùng thái quá, cho nên dù có kẻ tài trí xuất chúng cũng không dám sáng
tạo ra cái khác, sợ người dị nghị!
Tôi tính quốc âm ta ước chừng hơn một vạn tiếng, trong đó chỉ có lối
ba ngàn tiếng không thể viết như chữ Hán. Trường hợp đó ta dùng những
chữ Hán tương tự rồi thêm hiệp vần vào một bên mà thôi. Còn sáu, bảy
ngàn tiếng đã viết được như chữ Hán thì cứ viết, chỉ đọc như quốc âm thôi.
Đó gọi là "chữ Hán quốc âm". Từ nay hễ có dịch các sách mới hoặc có
người giỏi trước tác những sách về thời vụ thì bắt buộc dùng chữ Hán quốc
âm
. Như vậy người học sau này chỉ học mặt chữ thôi, không phải tốn
nhiều công phu học cái tiếng chẳng phải Hán chẳng phải ta. Có phải giải
quyết được dễ dàng những việc khẩn cấp mà thu được lợi ích rất lớn
không?
Điều thứ năm: Điều chỉnh thuế ruộng đất.
Xưa lấy thuế một phần mười. Ngoài ra cũng có các khoản khác, như
"cống", "trợ", "triệt" tùy lúc chứ không nhất định. Thuế có nặng có nhẹ tùy
việc chứ không phải theo ý riêng hay tình cảm thiên vị gì cả.
Điều thứ sáu: Sửa sang lại cương giới.
Cảnh vực của một nước rộng hẹp bao nhiêu cũng như một nhà có bao
nhiêu vườn ruộng. Chủ nhà không biết hết gia sản của mình có bao nhiêu
vườn ruộng, tọa lạc ở đâu, như thế là thiếu sót với gia đạo. Đối với đất
nước cũng vậy, nếu không nắm vững cương giới một cách chính xác (Để
nắm vững một cách chính xác tình hình cương giới phải dùng phương pháp
mới của phương Tây ngày nay chứ không thể theo phép tỉnh điền ngày
xưa...
Nay xin vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh,
huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp
bốn bên, xa gần, rộng hẹp, đồng thời mô tả hình thế mặt đất, như tôi đã nói
ở trên, rồi ghi chú rõ ràng vào bản đồ cả nước. Trong bản đồ phải có thuyết