Phàm việc thuê mướn nhân công, trước hết họ sẽ thuê dân ta, những
người nghèo khó không có kế sinh nhai thấy được lợi nhiều sẽ rủ nhau ra
làm, như thế sẽ tránh được cái thói du thủ du thực trộm cướp, như người
Tàu đổ xô đến Cựu Kim Sơn và Tân Kim Sơn trước kia vậy. Đó là lẽ thứ
hai.
Phàm những điều lợi mà họ được tất phải qua dân ta trước, rồi mới
đến nước khác. Phàm những đồ cần dùng mà họ xuất ra như các loại đồ
uống, thức ăn, khí cụ, tất từ nước khác chuyên chở tới. Họ có những đồ cần
dùng mà ta thiếu và cần thiết, thì cũng nhân họ có mà ta có. Đó là lẽ thứ ba.
Trừ các điều lợi đã giao ước, ngoài mấy phần thuộc về nước ta, còn họ
được mấy phần thì dân ta cũng được nhờ, như nào là việc buôn bán các đồ
tạp dụng cho đến mọi sự kinh doanh nhỏ khác linh tinh rất nhiều không thể
kể hết. Rồi lại có công nhân các nước kéo đến đông đảo thế tất phải mướn
đất ta dựng nhà, người thuê nhà đông thì thuế nhà cũng nhiều, ta lại được
cái lợi như người Anh ở Hạ Châu, không đánh thuế thuyền buôn mà chỉ thu
thuế nhà mà thôi, ấy là cốt ở chỗ người đông. Cho nên nước nào khai mỏ
thì dân cư ở đấy giàu có đông đảo, như Tây Châu là chứng cớ rõ nhất. Đó
là lẽ thứ tư.
Phàm chỗ nào họ đi đến thì họ đều dùng đủ mọi cách gây tình cảm để
được lòng vua và tôi, để dễ bề thuê mướn nhân công và để được các sự bảo
hộ trong khi ăn ở, sự phí tổn không thể kể xiết. Như thế không những ta
được cái lợi thường tình để làm ích cho nước, mà dân chúng cũng được của
cải lưu thông để tự cấp. Đó là lẽ thứ năm.
Nhân sự cần mẫn của họ làm phấn chấn sự ủy mị của dân ta; nhân cái
sức lực đã thành thuộc của họ giúp cho cái sức lực đang nuôi dưỡng của ta;
nhân cái lợi đã hiện có của họ giúp cho cái mới bắt đầu của ta; nhân sự qua
lại các nước của họ mà mở mang các đường giao thông của ta. Đó là lẽ thứ
sáu.
Phàm chỗ nào có họ đến, hơi yên dằm là họ đã lập các hội như nhà
thương, viện dục anh, viện tế bần, viện bố thí, trường học miễn phí, dân ta
sẽ được nhờ. Đó là lẽ thứ bảy.