Chử bâng khuâng đứng dậy.
Mấy chiếc thuyền vừa vào bến đã biết tin ông Chử mất. Suốt một dải bãi và
trong tít các làng, tiếng chày đâm vào lóng vang động từ thinh không xuống
mặt nước. Xa đến đâu cũng nghe tiếng lóng choang choang rợn lên nổi hiệu
truyền đi, khắp cõi biết trong bến có việc trọng.
Suốt đêm, vùng bãi không một đốm lửa. Dưới ánh trăng, người ra ngồi lũ
lượt, ủ rũ bó gối lặng im quanh lều ông Chử. Cả vùng đưa ông Chử ra mộ
rồi lại trở về đây.
Không ai để ý ở đám ma ông Chử có Vàng đi theo, bước lũn cũn cạnh chân
người. Le le đã bay ra nhà mồ ông Chử từ lúc nào. Le le run rẩy đậu trên
mái. Lúc mả đã được đắp lên nấm, le le sà xuống, đậu trên cục đất lăn lóc.
Vàng nằm ghếch hai chân vào sườn mồ. Như mọi khi, ăn no rồi, đặt mõm
lên mu bàn chân ông Chử.
Làng nước đã về cả. Cũng không ai biết hai con vật có nghĩa ấy có về cùng
mọi người hay không.
Mọi người vẫn ngồi trước lều. Mặt nước ràn rạt bóng trăng. Chử đã nói lại,
không biết bao nhiêu lần:
- Làng chạ ta xưa kia từ các nơi đến sinh cơ lập nghiệp vùng bến bãi này rồi
đông đàn mãi ra. Người như dòng nước, không bao giờ biết dừng chân, tôi
sẽ vâng lời ông tôi, cứ đi xuôi cho đến bao giờ trông thấy bể Đông. Khắp
trên bến, nhao nhao: “Cho tôi đi với!”. Cả tiếng con gái cũng lanh lảnh:
“Cho tôi đi với!”. Chuyện ấy cũng là thường. Dòng sông chảy đến đâu lại
mở ra đấy các bến bãi và làng mạc. Người sông nước bước xuống bến như
mỗi ai ra đường cái. Đi đi, sắp đi, lại đi, lúc nào cũng chờ đợi cũng trông ra.
Chử lại nói:
- Chúng ta sẽ đi. Chẳng phải cơm đùm nước bọc đâu. Trên sông nước, qua
nơi nào, ta lấy của trời nơi ấy ta ăn.
- Phải rồi, chỉ có cái khố bao đóng thôi mà.