những mô cát vàng lẫn phù sa trắng hồng. Xa nữa, xanh rờn bãi ngô, bãi
khoai lang, củ từ, những bãi lúa và những bụi chuối ken khít thành rừng.
Vào mùa chuối chín, chim các nơi bay về liền cánh, rợp cả trời bến. Những
đàn gấu, đàn voi trong rừng sâu lũ lượt kéo ra bẻ chuối.
Rồi Chử lại nghe lời bố mẹ tha thiết:
- Con ạ, ông con vẫn ở bến Tự Nhiên dưới kia.
Chử hỏi:
- Ông ở bến quê với ai?
- Ông ở một mình.
Chử chưa bao giờ được gặp ông, lại tưởng tượng ra như đã nhìn thấy ông.
Tóc ông Chử bạc xoá, lơ thơ trên hai vai lực lưỡng. Mặt ông Chử đỏ bồ
quân. Ông Chử vác cỗ lưới đay. Ông Chử xách chiếc bê chèo, bước xuống
thuyền. Con thuyền đánh cá rời bến, thả ra giữa trời nước lồng lộng. Gió
bay, râu tóc ông Chử càng trắng phơ.
Bố Chử nói:
- Ngày trước, cả nhà ta đều ở bến dưới ấy. Đời con người trên sông nước,
mặt trời mọc ở một nơi, đến lúc mặt trời lặn đã lại đổi bến khác, lại khi sớm
tối chống sào đẩy thuyền đi thì sao đã đổi ánh. Nhọc nhằn thế chỉ vì cả đời
đuổi theo con cá, con mú, không lúc nào ở yên, mà vẫn chưa biết đến chỗ
nào cùng. Nhưng ông nói: có khó nhọc mới biết bay nhảy, thế mới là đời
người, các con ạ.
Bố trò chuyện với mẹ: mới sinh ra đã đi đường nước rồi, song vẫn chưa
tường dòng chảy này có bao nhiêu ngọn nguồn đổ vào nhau thành sông Cái,
con sông Cái từ đâu đến đây. Ờ nhỉ, phải rồi, dẫu cho trong thế gian có nơi
nước dữ nước hiền khác nhau, nhưng nơi nào cũng có cá, có tôm, chúng
mình hãy đi dò xem cho biết tận gốc con nước này.
Mẹ tần ngần nhìn ra cửa bến, rồi nói: vợ chồng ta hãy đi hỏi ông.
Phải đấy, bố mới nhớ ra, cả đời ông đã đứng đốc sào, tất ông biết.