năm, mỗi khi thoáng bóng thuyền lạ rẽ vào bến, lão bà lại ra ngóng xuống.
Lão bà vịn một tay lên tấm dại nứa. Trên khuôn mặt khô rám như quả trám
phơi, bỗng ứa hai hàng nước mắt, trong khi ông Chử thong thả bước lên.
Ông Chử cất tiếng:
- Những điều xưa kia ước với nhau, tôi đã làm được rồi. Sông nước cõi ta
nhiều như mạng nhện, tôi đã đến được hầu khắp.
Lão bà cười, loá nước mắt:
- Trên đời, mấy ai được thảnh thơi như người.
Tối hôm ấy, trai gái từ bến lên đồi kéo đến đông khắp, mừng người trở lại.
Những đống gỗ to được đốt lên hồng rực một quãng nước. Từng dùi giọt
xuống đều đặn, đĩnh đạc, tiếng trống vang âm trong lửa reo phần phật.
Những cô nàng vác ra từng cây vầu rượu báng. Những vỉ cá nướng thơm
thoảng. Những xiên thịt nai sực nức. Chử ngồi giữa đám trai gái bến. Chử
cũng chẳng khác ông Chử. Ở bến này, Chử cũng là người trở lại. Đêm trăng,
các cô nàng đã bỏ hết những vuông khăn kín đáo. Những khuôn mặt vằng
vặc như trăng rằm, bao nhiêu trăng rằm mọc quanh làn tóc vờn lên như mây.
Biết được cô nào đã trả lại con dao. Cô nào hôm ấy ra đứng nhìn xuống bãi
lở và hỏi Chử câu đầu tiên. Thử để ý, đoán xem.
Đám con trai con gái ngồi đứng đông như hội quanh bãi đương đòi ông Chử
kể chuyện dọc đường.
- Các cháu có biết cá trắm?
- Bến này thật nhiều cá trắm.
- Đã ai biết được con cá trắm thế nào không?
- Không biết ạ.
Ông Chử thong thả kể:
- Giống cá trắm vốn ngụ trong đầm hồ, ven bờ cỏ. Nhưng đến khi gió thổi lá
tre vàng rụng đầy mặt nước, thế là bắt đầu cá trắm bơi đôi ra chơi ngoài