trong chúng tôi sợ hãi.”
Ông cau mày. “Với con gái tôi, thế giới này không bao giờ hết
những điều kỳ diệu. Nhưng tôi thừa nhận: con bé thường rất tùy tiện
trong cách thể hiện bản thân trước thế giới. Con bé luôn nói có điều gì
đó ngoài tầm với của nó và con bé gọi đó là “sự phù du vĩnh viễn.”“
Ông ngồi xuống chân giường, hai chân không chạm đến sàn. “Giá như
con bé mãn nguyện với những chiếc đồng hồ thì hay biết mấy!” Giọng
ông đầy khổ sở.
“Nhưng Petronella từ lâu đã ước ao được sống bên ngoài ranh
giới của thời gian được đo đếm theo kiểu thông thường: Luôn luôn
ương ngạnh, luôn luôn tò mò. Con bé giễu cợt cách con người ta bám
víu vào những chiếc đồng hồ của họ, cách mọi thứ phải nằm trong trật
tự. Công việc của tôi quá hạn hẹp đối với con bé. Tuy vậy những thứ
con bé làm ra trong xưởng của tôi đem bán thì gần như không ai mua.
Tôi thừa nhận chúng rất lạ mắt, nhưng tôi căm ghét việc phải khắc tên
tôi lên chúng và xem chúng là của mình.”
“Tại sao lại thế?”
Ông mỉm cười. “Bởi vì chúng không cho biết thời gian! Chúng
“đo” những điều khác - những điều người ta không muốn nhớ lại: sự
chết chóc, một trái tim tan vỡ, sự ngu dốt và điên rồ. Nơi lẽ ra là
những con số, con bé lại vẽ những khuôn mặt khách hàng. Con bé gửi
cho họ những thông điệp phóng ra từ chiếc đồng hồ khi kim chỉ đến số
mười hai. Tôi phải van nó dừng lại. Con bé bảo đó là vì nó có thể nhìn
vào linh hồn họ, thời gian bên trong của họ, một nơi mà giờ hay phút
không mang một ý nghĩa gì cả. Giống như đang cố thuần phục một
con mèo vậy.”
“Ông có tin là chị ấy có thể nhìn vào linh hồn người khác
không?” Nella hỏi. “Hình như chị ấy biết quá nhiều những điều sắp
xảy đến với tôi.”
Windelbreke xoa cằm. “Có không nhỉ?” Ông nói và nhìn về phía
xưởng làm việc của con gái. “Giọng cô nghe chắc như đinh đóng cột