mùi tử khí. Cô ta xoay hết những tấm gương vào tường, đảm bảo cho
linh hồn Marin tìm đường đến Thiên đàng. Họ không muốn Marin
mắc kẹt trong những cái ống khói; họ muốn linh hồn cô ta bay xuyên
qua những đám mây bên trên những mái nhà Amsterdam.
Marin cần phải sớm được chôn cất, bà Lysbeth bảo. Bầu không
khi kém lành mạnh sẽ không tốt cho Thea. “Phủ khăn xô lên cô ấy đi,
phu nhân.”
“Khăn xô?” Nella nói. “Không được đâu! Marin xứng đáng với
lụa Damascus chất lượng tuyệt hảo nhất.”
“Có thể phu nhân ấy thích khăn xô hơn thì sao?” Cornelia nói
nhỏ.
Khi đứa bé ngủ say, bà Lysbeth lấy ba đồng gun-đơn, nhét chúng
vào túi tạp dề. “Gọi tôi khi con bé thức dậy nhé. Tôi không đi đâu xa
đâu.”
Đi qua cửa nhà bếp, vì Nella cứ khăng khăng là không được đi
cửa trước dù được trả bao nhiêu đi nữa, bà Lysbeth Timmers dừng lại
lần nữa và quay lại nhìn chủ nhân mới. “Cái gì ở trên phòng cô vậy?”
Bà hỏi. “Cái tủ lớn trong góc nhà ấy. Tôi chưa từng nhìn thấy bất kỳ
thứ gì như thế.”
“Không có gì...” Nella nói. “Đồ chơi ấy mà.”
“Đồ chơi ra đồ chơi nhỉ?”
“Bà Timmers...”
“Cô phải làm lễ rửa tội cho đứa bé đi. Nhanh nhé. Để lâu không
tốt.”
Mắt Nella ngấn nước. Nàng nghĩ về những lời nói cuối cùng của
Slabbaert: “Hãy để lễ rửa tội mới của Johannes Brandt là một lời răn
cho tất cả quý vị.”
Bà Lysbeth nhìn nàng bằng sự thương hại lẫn sốt ruột.
“Chỉ cần đội mũ cho đứa bé thôi, phu nhân.” Bà ta thì thầm. “Tôi
dám chắc đó là mái tóc đẹp, nhưng đứa bé tội nghiệp phải sống trong