cái ba lô hải quân, và một máy ảnh Nikon có quai đeo. Cái quai có
những biểu tượng hòa bình nhiều màu bên trên.”
“Ừ, em sẽ là một cảnh sát giỏi đấy,” Brooks đáp. “Hôm nay anh đã
nhìn thấy anh ta ở quán ăn rồi. Bánh anh đào.”
“Nghĩa là sao?”
“Không có gì. Chỉ tò mò chút. Anh ta đến đây lúc mấy giờ?”
“Còi báo động kêu lúc bốn giờ mười tám.”
“Ồ, thế thì kỳ lạ đấy. Anh gặp anh ta ở quán ăn trong thị trấn lúc
gần bốn giờ. Chưa đầy nửa tiếng sau, anh ta đã ở đây.”
Tay cô nắm chặt lấy chân ly rượu của mình. “Anh nghĩ chúng đã
tìm ra em.”
“Cưng à, trông anh ta có giống mafia Nga không? Và phong cách
của chúng lẽ nào chỉ là thuê một gã nào đó lảng vảng tìm kiếm trong
khu rừng của em sao?”
“Không.” Vai cô thấy nhẹ nhõm hẳn. “Anh ta không có vũ khí. Ít ra
thì anh ta không mang vũ khí. Nhà Volkov sẽ không phái đến lẻ loi
một người tay không vũ khí.”
“Anh nghĩ đó là một ván cược an toàn.” Nhưng anh thấy cần phải
đề phòng, và ấn một số điện thoại trên di động của mình. “Chào,
Darla, thế nào? Ừ, mấy đợt rét vào dịp xuân có thể đáng kể đấy. Em
nghỉ một chút đi. Phải, chính thời điểm đó đấy, được rồi. Được rồi, em
có tên vị khách Roland Babbett nào đến nhận phòng không? Không
sao. Ừ, hừm. Cần các kiểu, phải không? Ừ.” Anh đảo mắt ra hiệu với
Abigail. “Phải, Roland Babbett. Anh ta ở phòng nào? Nào, Darla, anh
có phải là kẻ cha vơ chú váo nào dò hỏi đâu. Anh là cảnh sát trưởng.
Anh chỉ đang theo sát một việc thôi. Em biết anh có thể gọi cho Russ
và hỏi cơ mà. Ừ. Thế à? Hừm-hừm. Không, không có chuyện gì, chỉ là
một việc thường lệ thôi. Nhớ cẩn thận với đợt rét đó nhé, nghe chưa?
Tạm biệt.”
Anh lại nhấc ly rượu lên. “Darla có xu hướng hơi nhiều lời. Đúng là
anh ta ở đó đấy. Lấy một phòng - đòi thì đúng hơn - ngay dưới sảnh