chú ấy - là Sergei. Anh ta chối, nhưng anh ta nói dối. Em có thể nhận
ra anh ta nói dối. Korotkii, gã đúng là... Các chị đã nhìn thấy một con
rắn hổ mang giết một con chuột chưa? Cách nó nhìn, rất kiên nhẫn.
Làm sao nó lại có vẻ thích thú cái khoảnh khắc trước những cú mổ
cũng như thích chính những cú mổ thế chứ? Đúng y như thế. Alex rất
tùy tiện, cứ như thể anh ta là người đứng đầu. Nhưng anh ta không hề
đứng đầu. Korotkii mới đứng đầu. Và Alex sợ hãi thấy rõ khi Korotkii
nói họ biết anh ta hợp tác với cảnh sát. Rằng Sergei biết. Anh ta van
xin. Các chị có cần biết họ nói gì với nhau không?”
“Chúng ta sẽ quay lại tình tiết đó.”
“Gã đàn ông vạm vỡ đạp Alex quỳ xuống. Sau đó Korotkii rút một
khẩu súng ở thắt lưng ra. Chắc anh ta có bao súng. Em không hề nhìn
thấy. Gã bắn anh ta ở chỗ này.” Elizabeth chạm ngón tay lên trán. “Gã
gí súng vào trán anh ta, và gã bắn anh ta. Một tiếng nổ nhỏ thôi. Sau
đó gã bắn anh ta thêm hai phát nữa. Ở đây. Em đã suýt thét lên. Em
phải đưa tay bịt miệng để không thét lên. Korotkii gọi Alex là một...
Đó là một từ chửi rất tục tĩu trong tiếng Nga.”
“Em nói được tiếng Nga?”
“Không trôi chảy lắm. Em chưa bao giờ nghe cách diễn đạt này
trước đó, nhưng em hiểu nghĩa ngay. Em chỉ nhắc đến nó bởi vì mọi
việc diễn ra quá nhanh. Gã gọi Alex, mặc dù anh ta đã chết rồi, bằng
một cái tên. Rồi... Julie bước vào, từ phía nhà bếp. Có một phòng vệ
sinh ở phía bếp. Cô ấy nói, ‘Anh Alex, em cảm thấy không khỏe.
Chúng ta nên...’ Tất cả chỉ có vậy. Korotkii quay lại, và gã bắn cô ấy.
Cô ấy ngã xuống. Em nhìn rõ cô ấy chết, nhưng gã vẫn bắn thêm. Và
gã còn chửi thề bằng tiếng Nga. Em không nghe được lúc đầu. Trong
đầu em có những tiếng gào thét. Em không tài nào nghe được. Rồi em
nghe thấy tiếng Ilya. Em nghĩ bọn kia cũng sẽ giết anh ta. Em muốn
báo cho anh ta, giúp anh ta. Thế rồi...”
“Cứ bình tĩnh.” Riley dịu dàng nói với giọng điệu mà Griffith biết
rõ vốn không phải là giọng nói cố tình dịu dàng mà là sự quan tâm rất