lại và rút ra một chiếc áo sơ-mi, một quần đùi và đôi bít tất sạch. Sau khi
cạo râu xong dưới ánh nến, anh bước ra khỏi hầm.
Chỉ còn khoảng một giờ nữa thì sáng. Phía đông cũng tối và yên tĩnh như
phía tây. Một màn sương rộng và đều phủ trên mặt đất, trôi giữa lau sậy bên
bờ sông không phân biệt được nền trời tối đen, bình thản, không động tĩnh
như mắt một người mù, có mây phủ hay không.
Méc-xa-lốp cởi quần áo và thở phì phò đi ra bờ sông, bước trên cát ẩm
và lạnh.
- Trời ơi, lạnh quá! - Anh bước xuống nước và thốt lên.
Anh xát kỹ xà-phòng lên đầu, cổ, tai, cầm một túm vỏ gai kỳ ngực.
Quanh người anh, nước sông, trong đêm tối đen sẫm, xanh lờ lờ vì bọt xà-
phòng tan. Tắm rửa xong, anh mặc quần áo sạch và trở về hầm. Ngồi trên
tấm phản, anh chọn trong gói ra một chiếc cổ cồn trắng, là bột, và gài vào
cổ áo va-rơi. Sau đó, anh dốc ra lòng bàn tay tí nước hoa Cô-lô-nhơ còn lại,
xoa lên má, rồi vét luôn một ít phấn ở đáy một chiếc hộp tròn nhỏ cùng xoa
lên. Xong xuôi, anh lau mặt cần thận bằng một chiếc khăn ẩm và khoan
thai mặc quần áo. Anh mặc chiếc quần màu xanh nước biển, cái áo va-rơi
và thắt một chiếc thắt lưng mới. Anh đánh kỹ đôi ủng, đầu tiên bằng bàn
chải, rồi muốn cho bóng hơn, bằng một mẩu vải len. Sau đó, anh rửa lại tay
một lần nữa, chải mái tóc ướt và ngửng đầu cao, anh vuốt lại áo va-rơi,
kiểm tra khẩu súng lục đút vào bao, lấy một khẩu súng lục nhỏ nữa ở trong
va-li ra bỏ vào túi; anh để tấm ảnh vợ và con gái vào túi trên áo va-rơi.
- Xong. - Anh nói.
Sau khi xem đồng hồ, anh đánh thức tham mưu trưởng dậy.
Trời bắt đầu sáng. Một làn gió lạnh thổi xào xạc trong đám lau sậy giăng
ra trên mặt sông như một tấm lưới đương gợn; gió lướt nhanh qua cánh
đồng, nhẹ nhàng leo qua các đường hào, các hố chống tăng, quét một đám
bụi trên nóc các hầm và thổi tạt các túp cỏ gai về phía các hàng rào dây
thép.
Mặt trời lên nhanh, hệt như một người chánh án già lạnh lùng và thản
nhiên đương sửa soạn lên ngồi trên chiếc ghế cao của mình, bên trên mặt
đất bao la. Như những tảng than lớn, những đám mây đen sẫm rực lên một