10 giờ đêm, đơn vị được lệnh báo động. Các chiến sĩ lái xe mở máy kêu ì
ì. Nhân dân kéo ra đứng ở các ngưỡng cửa, im lặng nhìn bộ đội chuẩn bị
lên đường. Một bà cụ người Do-thái, nom giống một con bé gầy guộc, đầu
và vai phủ một tấm khăn len dày, hỏi các chiến sĩ:
- Các đồng chí ơi, chúng tôi nên ở lại hay là cũng nên đi nốt?
- Mẹ muốn đi đâu kia mẹ? - Anh chàng Gia-vê-lép vui tính hỏi - Với cái
tuổi chín mươi của mẹ, mẹ chẳng cuốc bộ được bao xa đâu!
Bà cụ ngán ngẩm gật đầu. Cụ đứng gần một chiếc cam- nhông sáng lên
trong một ánh đèn pha xanh. Cụ lấy một đầu tấm khăn san chùi cho cái
chắn bùn của chiếc xe, nhè nhẹ như thể sờ vào bát đĩa thờ vậy. I-nha-chi-ép
để ý thấy cử chỉ của bà cụ. Và đột nhiên lòng anh chứa chan thương hại.
Như đoán được niềm trắc ẩn ấy, bà cụ oà khóc.
- Làm thế nào bây giờ, làm thế nào bây giờ? Các đồng chí đi đấy có phải
không?
Tiếng súng nổ át tiếng kêu yếu ớt của cụ, và cụ khẽ nói tiếp, không ai
nghe thấy cả:
- Chồng tôi bị bại liệt; ba con trai tôi ở bộ đội; hôm qua, lại đến đứa út đi
gia nhập dân quân. Các con dâu tôi tản cư theo nhà máy. Tôi biết làm gì
bây giờ, các đồng chí?
Trong sân, một trung úy gọi I-nha-chi-ép:
- I-nha-chi-ép, ba người sẽ ở lại tới sáng để đi theo chính ủy. Trong số đó
có đồng chí.
- Báo cáo trung úy, rõ. - I-nha-chi-ép vui vẻ trả lời.
Anh không mong gì hơn là được ở lại thành phố đêm nay. Chả là anh rất
ưa cô gái tản cư Vê-ra. Nàng làm công vụ ở trụ sở, ban biên tập tờ báo địa
phương. Quá 11 giờ đêm, nàng từ nơi làm việc trở về nhà, những khi ấy I-
nha-chi-ép thường đợi nàng ở trong sân. Anh thích ngồi trên một chiếc ghế,
bên cô gái dong dỏng, có đôi mắt đen và tấm thân đầy đặn ấy, nghe nàng
nói tiếng nói êm dịu miền U-cơ-ren. Nàng không ngớt thở dài mà kể cho
anh nghe nàng đã sống ở Pơ- rốt-xcu-rốp trước chiến tranh như thế nào,
nàng đã trốn bọn Đức ra đi giữa ban đêm như thế nào, chỉ mang theo có
một chiếc áo dài và một túi nhỏ bánh bít-cốt. Nàng để cha mẹ già và em trai