THÁNG TÁM
Một chiều mùa hạ 1941, trọng pháo quân ta trẩy trên đường đi Gô-men.
Pháo lớn đến nỗi ngay những chàng lái xe, vốn đã dạn dày kinh nghiệm và
đã từng thấy lắm chuyện lạ trên đời mà nay cũng đều phải tò mò ngó nhìn
những con thú khổng lồ bằng thép ấy. Bụi chiều như treo lơ lửng trên
không, bám đầy mặt mũi áo quần các pháo thủ, làm rậm cả mắt. Chỉ có vài
người đi bộ, còn phần lớn đều ngồi trên các cỗ pháo. Một chiến sĩ uống
nước đựng trong chiếc mũ sắt, nước chảy ròng ròng trên cằm, hàm răng ướt
át bóng lên. Trông cứ như anh đang cười. Nhưng đâu phải. Một nỗi mệt lử
hiện rõ trên nét mặt trầm lặng của anh.
- Máy bay! - Một trung úy đi đầu kêu lên, giọng kéo dài.
Hai máy bay đang lao nhanh tới, bên trên khu rừng sồi nhỏ. Ánh mắt lo
ngại, bộ đội theo dõi đường bay của chúng. Những câu nói bàn qua tán lại:
- Máy bay ta!
- Không, máy bay Đức !
Và mọi người lại đùa cái câu đùa của con nhà lính trong những trường
hợp ấy:
- Máy bay ta đấy, đưa mũ tớ cho tớ che đây, mau lên!
Máy bay cắt ngang qua đường, thế nghĩa là máy bay ta thôi, bởi vì máy
bay Đức thông thường hễ cứ trông thấy một đoàn quân của ta là dàn ngay
thành đội hình bay song song với đường cái.
Nhiều máy kéo lớn kéo các khẩu pháo qua dãy phố của một đường làng.
Giữa những ngôi nhà đất trắng nhỏ, giữa những mảnh vườn thôn dã trồng
những bông hoa vàng cánh cong lên, và những hoa mẫu đơn đỏ thắm ánh
lên muôn tia lửa dưới nắng chiều, giữa những phụ nữ ngồi ở bậu cửa và
những cụ già râu bạc, giữa tiếng bò rống, chó sủa, những khấu pháo lớn
kéo lững thững qua khu làng yên tĩnh vào buổi hoàng hôn như đượm một
vẻ gì kỳ dị.
Gần một chiếc cầu nhỏ đang rên lên vì phải chở quá nặng, một chiếc xe
hơi đang đỗ, chờ cho các khẩu pháo qua hết. Anh lái, hẳn đã quen chờ
nhiều phen như vậy, tủm tỉm nhìn người chiến sĩ đang uống nước đựng