ro nằm ngay giữa một con đường giao nhau của New York dễ dàng đến mức
lo ngại.
Chúng tôi leo xuống. Và leo xuống.
Cái thang dường như dẫn xuống mãi. Ô ánh nắng xuyên qua cái hố trên
đầu chúng tôi ngày một nhỏ hơn và nhỏ hơn cho đến khi nó chỉ bằng một cái
tem thư. Tôi không còn nghe thấy tiếng xe cộ lưu thông trong thành phố
nữa, chỉ còn lại tiếng vọng của những giọt nước đang nhỏ giọt xuống. Cứ
mỗi sáu mét hay khoảng thế lại có một ngọn đèn lập lòe mờ ảo bên cạnh cái
thang, nhưng đường đi xuống vẫn tối tăm và làm người ta sởn gai ốc.
Áng chừng rằng đường hầm đang thông ra phía sau lưng mình tạo thành
một nơi rộng hơn rất nhiều, tôi vẫn tập trung vào cái thang, cố không giẫm
lên hai tay Annabeth vì cô ấy đang leo xuống bên dưới tôi. Tôi không nhận
ra chúng tôi đã đến được đáy hố cho đến khi tôi nghe thấy tiếng nước bắn
tung tóe từ giày cô.
“Hephaestus thần thánh ơi,” cô kêu lên. “Percy, xem này.”
Tôi đáp xuống ngay sau cô ấy trên một vũng cạn nhỏ toàn bùn. Xoay
người sang, tôi nhận ra chúng tôi đang đứng trong một cái hang có kích
thước cỡ một nhà máy. Đường hầm nơi chúng tôi vừa leo xuống trông như
một ống khói hẹp. Các bức tường đá tua tủa cáp, đường ống và các hàng
gạch cũ – có thể là phần móng của những tòa nhà cũ. Mấy ống nước, có khi
đã từng là đường cống, bị vỡ, tạo ra một tia nước phun đều đều dọc theo các
bức tường, làm sàn nhà trở nên lầy lội. Tôi không muốn biết trong dòng
nước đó có gì.
Ở đây chẳng mấy sáng sủa, còn cái hang thì giống như được pha tạp giữa
công trình xây dựng và chợ trời. Nằm rải rác khắp hang là các sọt, thùng
dụng cụ, các tấm gỗ nâng hàng và mấy chồng ống thép. Thậm chí có cả một
chiếc xe ủi đất bị lún phân nửa trong đống bùn.
Còn kỳ lạ hơn là: vài chiếc xe hơi cũ, không biết bằng cách nào đã được
mang từ trên mặt đất xuống đây, chiếc nào chiếc nấy chất đầy va-li và hàng
đống ví tiền. Các giá áo quần bị quăng bừa bãi khắp nơi như thể ai đó đã dọn