Chẳng biết ngày nào thoát khỏi vòng lao tù.
Dịch thơ:
Trời xanh cố ý hãm anh hùng,
Cùm xích tiêu ma tám tháng ròng,
Tấc bóng nghìn vàng, đau xót thực,
Bao giờ thoát khỏi chốn lao lung? (1)
NAM TRÂN dịch
BAO GIỜ THOÁT KHỎI CHỐN LAO LUNG
Tích quang âm (Tiếc ngày giờ) được viết vào ngày 29 tháng 4
năm1943, tính từ hạ tuần tháng 8 - 1942 Bác bị bắt, đến thời điểm làm bài
thơ này đã là tám tháng mòn mỏi chốn gông cùm Bát nguyệt tiêu ma cốc
trất trung.
Trong tù, Bác đếm từng ngày, mong sớm được minh oan, sớm được ra
tù. Ngục trung nhật ký đã ghi lại rất cụ thể các mốc của những chặng
đường bị giải, bị chuyển lao, các mốc thời gian nhìn lại những tháng ngày
qua và cả các mốc của quá trình diễn biến tâm trạng, nghĩ suy trước thực
trạng tù đày.
Nếu như bài thơ Tứ cá nguyệt liễu nói rõ mình đã bị giam Bốn tháng
rồi với biết bao khổ cực nhưng không nao núng tinh thần, không chịu lùi
một phân; ở bài Đáo Liễu Châu là sự hồi tưởng lại những ác mộng qua mấy
nhà tù với muôn nghìn cay đắng không thể không buồn nên đã thoáng chút
vương sầu là thế; đến bài Tích quang âm thì thực sự Tiếc ngày giờ lắm.
Thời gian thôi thúc, thời gian thúc ép đã được đặt ra nghiêm túc, phải suy
nghĩ không thể cứ để thời gian trôi đi một cách đáng tiếc Xích bích thốn âm