- Ông có nhớ cây hoa trà trên rêu ở đền thờ không? – tôi hỏi.
- Không, tôi không hề nhớ, - ông ấy đáp. – Nhưng bà làm cho tôi
muốn xem lại bộ phim đó. Bà có muốn hôm nào đấy chúng ta cùng xem
phim ấy không?
- Tôi có băng video, - tôi nói, - tôi vẫn chưa trả cho thư viện.
- Cuối tuần này, được không? – ông Kakuro hỏi.
- Ông có đầu video không?
- Có, - ông ấy cười và trả lời.
- Thế thì được, - tôi nói. – Nhưng tôi đề nghị một việc: ngày Chủ nhật,
chúng ta sẽ xem phim và uống trà, tôi sẽ mang bánh ngọt tới.
- Nhất trí, - ông Kakuro trả lời.
Và buổi tối trôi đi trong khi chúng tôi vẫn đang say sưa chuyện trò mà
không để ý tới mối liên hệ giữa các câu chuyện cũng như giờ giấc, vừa nói
vừa nhâm nhi hết chén này tới chén khác một thứ trà tảo vị rất đặc biệt.
Không có gì bất ngờ khi tôi lại phải đến chiếc bệ xí trắng như tuyết và tấm
thảm màu vàng mặt trời. Tôi chọn nút một bông hoa sen – đã nhận thông
tin – và chịu đựng khúc Confutatis với sự thanh thản của người đã am
tường. Điều vừa gây bối rối vừa tuyệt vời ở Kakuro Ozu là ông ấy kết hợp
được lòng nhiệt tình và sự ngây thơ của tuổi trẻ với cách đối xử khéo léo và
lòng nhân từ của một nhà hiền triết. Tôi không quen có mỗi quan hệ như
thế với mọi người; tôi cảm thấy ông ấy có thái độ bao dung và chú ý quan
sát, trong khi những người khác mà tôi biết lại thường ngờ vực và tốt bụng
(Manuela) , thật thà và tốt bụng (Olympe), hay ngạo mạn và tàn bạo (tất cả