Cứ như cố tình, tiếng bước chân chợt quay trở lại và Arthens bấm
chuông phòng tôi.
Tôi đứng dậy, cẩn thận lê chân xỏ trong đôi giày vải mềm vừa vặn đến
mức chỉ có liên minh giữa bánh mì và mũ bêrê
mới có thể thách thức
chúng bằng những lời sáo rỗng thường gặp. Làm như thế, tôi biết rằng
mình đã khiến Bậc thầy tức giận, Bậc thầy là khúc thơ sống động về sự
thiếu kiên nhẫn của những sinh vật ăn mồi lớn, và tôi không hề vô tình
chậm rãi hé mở cánh cửa để thấy một cái mũi đa nghi mà tôi hy vọng là sẽ
đỏ và bóng loáng.
- Tôi đang đợi một túi đồ, - ông ta nói, mắt nheo nheo, mũi nhăn lại. –
Khi nào người ta mang tới, bà có thể đem ngay cho tôi được không?
Chiều nay, ông Arthens đeo chiếc cà vạt khăn rất to có chấm phấp
phới quanh chiếc cổ quý phái của mình, nhưng chiếc cà vạt đó không hợp
với ông ta tí nào, vì mái tóc xù như sư tử và hai nút thắt phồng to của chiếc
cà vạt lụa trông như chiếc váy xòe mỏng mang nhiều lớp, làm mất đi sự rắn
rỏi mà người đàn ông thường khoác lên mình. Hơn nữa thật quái quỷ, cái cà
vạt ấy làm tôi liên tưởng đến một thứ gì đó. Tôi suýt bật cười khi nhớ lại
cái đồ vật đó. Đó là cái cà vạt của Legrandin. Trong cuốn Đi tìm thời gian
đã mất, tác phẩm của một ông Marcel nào đó, Legrandin là một người gác
cổng mà ai cũng biết và cũng là một kẻ học đòi bị giằng xé giữa hai thế
giới, thế giới mà anh ta đang sống và thế giới mà anh ta muốn bước vào,
một kẻ học đòi khốn khổ mà từ hy vọng đến cay đắng và từ lệ thuộc đến
coi thường, cái cà vạt thể hiện được hết những biến đổi sâu sắc nhất ấy. Ví
dụ như khi ở quảng trường Combray, vì không muốn chào cha mẹ của
người kể chuyện nhưng vẫn buộc phải chạm mặt họ, anh ta dùng chiếc cà
vạt khăn, giơ cho nó bay trong gió, bày tỏ một tâm trạng buồn thay cho lời
chào thông thường.