Thứ ba, viện trợ nước ngoài thường được tiến hành liên chính phủ. Các
chính phủ nhận viện trợ thường đóng vai trò như người gác cửa, chi các
nguồn quỹ vì những mục đích của riêng họ. Trong trường hợp này, viện trợ
trở thành nguồn tài trợ chính cho những chính phủ không được lòng dân.
Thứ tư, các nước viện trợ muốn giữ quyền kiểm soát của nước mình đối
với viện trợ mà họ cung cấp, vì vậy hai bên thiếu sự hợp tác. Nếu các quốc
gia tranh đua để viện trợ thì những nước nhận viện trợ sẽ dễ dàng chi các
nguồn lực này vào mục đích của chính họ. Trường hợp ở Bosnia là một ví
dụ: viện trợ quốc tế bị lãng phí trầm trọng và chỉ để nuôi chính quyền địa
phương.
Cuối cùng, mọi người không biết rằng viện trợ quốc tế là ngành kinh
doanh nhiều rủi ro. Viện trợ hiệu quả còn khó hơn việc kinh doanh có lãi
gấp nhiều lần. Đó là vì không có một hình thức đơn lẻ nào có thể đo được
lợi ích xã hội, trong khi lợi nhuận có thể được tính toán rõ ràng. Mặt khác,
các quan chức quản lý nguồn viện trợ cảm thấy mất nhiều hơn được khi họ
chấp nhận rủi ro. Vì vậy đương nhiên kết quả không xán lạn gì, đặc biệt khi
chúng được đánh giá trên cùng tiêu chí với các hoạt động hành chính khác
mà không được trợ cấp dù có một số khó khăn nhất định. Tuy vậy, điều
đáng nói là viện trợ nước ngoài đã thực sự mang lại một số kết quả tích
cực, chẳng hạn trong việc giúp các ngân hàng trung ương, các thị trường tài
chính hay các cơ quan tư pháp hoạt động. Điều này cho thấy, dù có nhược
điểm nhưng viện trợ nước ngoài vẫn rất quan trọng.
Hệ thống quỹ tài trợ của tôi hoạt động theo nhiều kênh khác nhau.
Nhiệm vụ của mạng lưới này là thúc đẩy sự phát triển của những xã hội
mở. Dù hoạt động xuất sắc hay mắc lỗi, mạng lưới này chắc chắn chỉ phục
vụ cho lợi ích của người nhận. Trong phạm vi có thể, những quỹ này sẽ
được chính các công dân của quốc gia nhận viện trợ quản lý. Một ban gồm
các công dân sẽ quyết định thứ tự ưu tiên. Ban này có thể làm việc với
chính phủ nếu có thể, nếu không họ vẫn có thể làm việc độc lập; đôi khi họ